Ông thầy Việt văn

      No Comments on Ông thầy Việt văn

Vũ Thế Thành

Hôm nay là ngày giỗ mãn tang “Ông thầy Việt văn” Nguyễn Văn Vịnh. Thầy Vịnh có mặt ở trường TH Trần Lục SG từ những năm cuối thập niên 50, và sau đó trường chuyển về cư xá Bắc Hải với tên mới là Nguyễn Du năm 1971.  Khởi đầu là nhân viên trường, sau đó thầy học thêm và lấy bằng Cử nhân giáo khoa Văn chương VN. Có thể nói thầy Vịnh chứng kiến biết bao thăng trầm của trường TH Trần Lục, từ một trường Công giáo di cư từ Phát Diệm vào Sài Gòn, chuyển thành trường TH Công lập Trần Lục, và rồi sau này là Nguyễn Du.

***

Năm 1980, thầy Vịnh dính vào vụ án “lưu trữ phát tán tài liệu phản động” trong biến cố ở Trung tâm Đắc Lộ của Dòng Tên ở đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng). Trung tâm Đắc Lộ bị tịch thu, và trở thành tòa soạn báo Tuổi Trẻ và một xưởng in (hiện nay đã trả lại một phần cơ sở cho nhà dòng). Vụ án Đắc Lộ đầy “bí ẩn” như vụ dòng Đồng Công Thủ Đức năm 1987.  Thầy Vịnh bị tù (2-3 năm gì đó, tôi không nhớ rõ), và chính thức “mất dạy” từ khi bị bắt.

Thầy Vịnh mất trong mùa đại dịch, nhưng không vì nhiễm Covid mà chết vì bệnh tật tuổi già.

Hôm nay, tôi post lại bài “Ông thầy Việt văn” để tưởng nhớ một người thầy. (Vtt)


Ông thầy Việt văn

Tôi hận ông thầy Việt văn lớp Mười một. Ổng chơi không đẹp khi bắt tụi tôi học thuộc lòng bài thơ Kẻ Sỹ của Nguyễn Công Trứ. Đó là bài hát nói gieo vần “vô kỷ luật” nhất mà tôi từng biết, chả vần chả điệu, lòng thòng, Hán nhiều hơn Nôm.

Đây này, trích thử vài câu nghe chơi:

… Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên…

Mà tôi theo ban Toán, chứ có phải Văn chương đâu. Hiểu được ý nghĩa bài thơ đó cũng đáng nể rồi, giờ còn bắt học thuộc lòng nữa, coi sao được. Lớp bốn mươi học sinh, mỗi tuần chỉ có hai giờ cổ văn, tôi có bảy mươi lăm phần trăm thoát hiểm, lỡ bị gọi trả bài thì coi như trời hại. Nhưng ổng tỉnh bơ: “Tôi sẽ gọi từng người cho đến hết lớp”. Ổng còn thêm: “Ai không thuộc, tôi sẽ cho cơ hội lần sau, và lần sau nữa cho đến khi… có điểm”. Thế là rõ! Ổng quyết tâm… chơi tụi tôi đến cùng. Không còn chọn lựa nào khác, đành ôm hận, lảm nhảm méo mỏ với cái bài thơ đó cho đến khi thuộc lòng.

Cơ hội rửa hận đến khi ổng ra đề luận: Bạn nghĩ gì về tình thầy trò ngày nay?. Từ hồi biết mặt chữ, tôi chưa bao giờ “múa bút” sướng như thế. Nào là, thời xưa học một thầy, học để làm quan, và chỉ học nghề… văn. Thời nay, học đủ thứ, cần gì học nấy, học để hành nghề, để kiếm cơm. Thời đại khoa học, ai học trước người đó là… “thầy”, bởi vậy mới có chuyện đi học luyện thi, mới có thầy giáo “cua”(*) học trò… Đại loại bài luận văn là một “bản cáo trạng” về thầy. Tôi khoắng bút như một nghệ sĩ, cho đến khi gần hết giờ, chấm xuống hàng, kết luận:  Nên xem thầy giáo như người anh, coi bộ nhẹ nhàng hơn khi nhìn dưới khía cạnh đạo đức. Thiệt hả giận! Tôi viết với tư thế “tử vì đạo”, ăn trứng vịt cũng được, không thành danh thì cũng thành… ma.

Bài luận được mười sáu điểm. Hôm phát bài, ông thầy cười cười“Tôi không đồng ý với em ở nhiều điểm, nhưng vẫn cho em điểm số cao nhất”. Thiệt chưng hửng! Tôi mơ hồ hình như ổng chơi… trên cơ mình, nhưng “cái tôi” khốn nạn đã đẩy tôi đi quá xa, khoác lác hả hê với bè bạn: “Cái hận Kẻ Sỹ đã rửa xong!”.

Ổng còn nhiều chiêu kỳ quái khác. Tú Xương thì học trò đứa nào chẳng khoái. Lẽ ra phải chia sẻ chút đỉnh với đám học trò mới lớn bằng những câu thơ:

Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường

hay ít ra cũng thông cảm với bọn học trò đang chuẩn bị bước vào vòng “ân oán” của thi cử:

Đau quá đòn hằn, rát hơn lửa bỏng
Hổ bút hổ nghiên, tủi lều tủi chõng…
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!

Không! Ổng phang bài:

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngửng đầu rồng.

Ổng giảng say sưa, bằng giọng bi ai, phẫn hận về thời Nho mạt, về danh lợi, về nhân phẩm… Ổng truyền lửa cho đám học trò đang há hốc miệng ngồi nghe, xả suốt hai giờ đồng hồ. Hình như ổng đang dạy tụi tôi kiến thức để làm người, chứ không phải kiến thức để đi thi. Ổng đâu ngán cháy giáo án. Mà hồi đó làm gì có giáo án. Bài soạn của ổng là xấp giấy khổ A4 gấp đôi, chẳng bao giờ thấy ổng mở ra. Ổng chỉ mở… sổ điểm để gọi tên khảo bài.

Đời cứ thế trôi đi… Những năm cuối thập niên bảy mươi, đầu tám mươi, đời sống khó khăn thế nào khỏi cần kể. Tôi làm tại một trung tâm nghiên cứu ở Sài Gòn. Ban ngày khoác áo blouse vào phòng lab cứ như là… viện sĩ. Tối về mượn xích lô của thằng bạn, cảo vài vòng kiếm thêm. Một buổi chiều trời mưa, ế độ, tôi tấp vào quán nhậu ven đường (cái lều nhậu thì đúng hơn) gần ngã tư Bảy Hiền. Hồi đó khu này còn hoang vắng lắm. Quán cũng ế độ nốt, chỉ có mình ông chủ đang trầm ngâm bên ly rượu. Tôi kêu một xị, ngồi trông ra đường, nghe tiếng mưa lằng nhằng trên mái nhà, rầu thúi ruột… Chợt nghe tiếng ngâm ê a của ông chủ quán từ phía sau. Lời ngâm nghe quen quen… Rồi tự nhiên tôi cũng cất tiếng ngâm theo:

… Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn.
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí.
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên…  

… và cứ thế cho đến hết bài Kẻ Sỹ

Một khoảng im lặng. Tôi quay lại, không ai bảo ai, cả hai nâng ly mời nhau. Trong sự nghiệp cụng ly của tôi, chưa bao giờ tràn ngập những tiếng nói không lời như lần đó.

Chủ quán trạc ngoài ba mươi, cao học luật, công chức chế độ Sài Gòn. Sau 75, đi cải tạo bốn năm, về mở lều nhậu tiêu sầu. Chúng tôi cà kê chuyện đời, chuyện người, chuyện số phận đẩy đưa… Rượu đến mềm môi. Bài thơ Kẻ Sỹ thuở đi học tưởng đã trôi vào quên lãng, bỗng thức dậy trong một đêm mưa, có người đồng điệu, ngân nga như tiếng chuông đeo đẳng đời người.

Đất nước thời mở cửa, kinh tế thị trường nửa khép nửa hở. Kiếm sống bằng năng lực thì ít, nhưng bằng quyền lực hay dựa hơi quyền lực thì nhiều. Luật lờ mờ, nhưng lệ rõ ràng. Làm ăn là phải biết điều, gọi văn vẻ là… thỏa hiệp. Thỏa hiệp đủ thứ, không thỏa hiệp không được. Giới hạn thỏa hiệp tới đâu, tùy thuộc vào nguyên tắc sống của mỗi người. Cái giới hạn này mong manh, tự mình hạ thấp giới hạn xuống, rồi tự biện minh với bao lời hoa mỹ, đi ngược lại xu hướng thời đại là không thức thời. Dối người, dối mình, đạo đức giả hồi nào chẳng hay.

Kẻ Sỹ thời nay lộn ngược rồi: Thương, Công, Nông, Sỹ. Ai chẳng khoái tiền, khoái danh. Cám dỗ vô cùng! Đạo lập thân làm sao giữ lấy cương thường? Mỗi lần như thế, tiếng chuông đêm mưa ở cái “lều nhậu” lại vang lên, làm nhức nhối kẻ bị mang tiếng là… gàn dở, toát mồ hôi với cái lưới “đầu rồng đít vịt”.

Kinh thánh có chuyện kể, đứa con út đòi cha chia gia tài, rồi tìm đến phương trời xa vui chơi thỏa thích. Người cha chiều nào cũng tựa cửa đứng trông con về. Rồi thằng con về thật. Nó đã phung phí hết tiền, bây giờ đói rách trở về nhà cha xin chén cơm thừa. Nhưng người cha mừng rỡ, đã mặc áo mới cho nó, làm tiệc linh đình mừng con mình trở về.

Văn hào Pháp, André Gide, cũng có câu chuyện Đứa con hoang đàng tương tự, chỉ khác khúc cuối. Đang giữa tiệc mừng, thằng con lững thững bỏ về phòng, nhìn xa xa qua khung cửa sổ, nhớ đến những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng cùng chúng bạn. Nó đang mơ một chuyến đi khác. Trở về chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Hồi đó, đọc đến đoạn này, tôi bật cười sảng khoái, “Phải thế mới được!”.

Thưa thầy Việt văn, thằng đệ (tử) giờ đây đầu bạc chân mỏi, ngày Nhà giáo năm nay xin hầu thầy cho đến tận cùng bữa tiệc để khoanh tay nói lời tạ lỗi, trước khi phản xạ tung hô theo đám đông: Biết ơn thầy cô.

Vũ Thế Thành, Đà Lạt 2011
(trích “Sài gòn, một góc ký ức và bây giờ), tái bản 2021)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *