Phạm Tín An Ninh
(bản dịch Pháp ngữ phía dưới- dành cho các cháu không đọc được tiếng Việt)
Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!
***
Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.
Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!
***
Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoànbiệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo, 6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.
Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục, Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)
Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.
Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.
Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.
Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!
(trên đường ra trận – ảnh từ Internet)
Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.
***
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh củahai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.
Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.
Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.
Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.
(mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)
Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.
(thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)
Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.
Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.
50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.
Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa. (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005, nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
50 năm, nền văn học “xã hội chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!
Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp, tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.
Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:
“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.
Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…
Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:
“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.
(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)
Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”
Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”
Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:
“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….
Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”
***
Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”
Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:
-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk
-Nhật Bản : 35,611 Mk
-Đài Loan : 34,944 Mk
-Malaysia : 14,423 Mk
-Thái Lan : 7,754 Mk
Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.
Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).
-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk
-Hung Gia Lợi (Hungary) = 25,703 Mk
-Ba Lan (Poland) = 25,040 Mk
-Lỗ Ma Ní (Romani) = 21,570 Mk
-Bảo Gia Lợi (Bulgari) = 18,456 Mk
Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.
Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.
Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.
***
Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dược một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:
Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!
Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!
Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!
“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê
Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”
Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!
Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?
Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.
Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!
Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.
Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.
Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”
Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.
…
Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?
Riêng tôi!
…
Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”
Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!
…
Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!
Xin lỗi ! “tháng Tư!”
Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!
Xin lỗi tất cả!
Cả những người “bên thua cuộc!”
Biết sao được !
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc
Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.
Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ
Tạ Lỗi Miền Nam
Tôi sinh ra ở miền bắc
Không hình dung ra giặc thế nào
Người ta hô hào
Phải căm thù giặc…?
Người ta dạy tôi là người miền bắc
Phải biết thương yêu đồng bào miền nam
Bà con ruột thịt đang lầm than
Dưới gót giày của Mỹ Diệm…
Những người con nông dân thật thà như đếm
Mặc áo lính vai khoác súng lên đường
Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương
Đánh đuổi quân xâm lược…
Thống nhất đất nước
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình
Miền nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!
…
Sám Hối
Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…
Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác
Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn
Gieo thù hận trong lòng con cháu
Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm
Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm
Mất chính mình mang tội ác với tương lai
***
Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.
Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”
Cuối tháng 4-2025
Phạm Tín An Ninh
Bài trên Diễn Đàn Thế Kỷ: https://diendantheky.net/pham-tin-an-ninh-50-nam-con-do-noi-buon/
*****
(Bản dich Pháp ngữ của Gs Nguyễn Duy Vinh)
50 ans – la douleur demeure
par Phạm Tín An Ninh, publié le 30 avril 2025 dans https://diendantheky.net/pham-tin-an-ninh-50-nam-con-do-noi-buon/ (traduit par Nguyễn Duy Vinh, avec l’aide de chatGPT)
Le 24 février 2025, lors de l’Assemblée Générale des Nations Unies, les États-Unis ont tourné le dos à leurs alliés de l’OTAN ainsi qu’à la majorité des pays du monde libre, en prenant officiellement position aux côtés de la Russie, de l’Iran, de la Corée du Nord et d’autres nations proches du bloc communiste. Washington a voté contre la résolution condamnant la Russie pour sa guerre d’invasion en Ukraine, à l’occasion du troisième anniversaire de l’offensive lancée par Vladimir Poutine sur le territoire ukrainien.
Le monde entier a ensuite été stupéfait de voir le 47e président des États-Unis se montrer amical envers l’ennemi russe, allant jusqu’à faire l’éloge et défendre le boucher Poutine, tout en insultant et humiliant le président Zelensky — pourtant son homologue, son ancien allié fidèle. Pire encore, le président américain a exigé l’exploitation des ressources minières, des terres rares et des biens nationaux de l’Ukraine pour compenser les aides financières accordées précédemment.
C’est probablement cette revendication qui a déclenché une vive dispute, devenue une violente altercation à la Maison Blanche le 28 février 2025, entre le président ukrainien Zelensky, le président américain D. J. Trump et le vice-président J.D. Vance, sous les yeux des médias présents et retransmise en direct à la planète entière. Après avoir « invité » le président Zelensky et sa délégation à quitter le Bureau ovale, le président Trump a décidé de suspendre immédiatement toute aide militaire ainsi que le partage des renseignements, afin de faire pression sur l’Ukraine pour qu’elle accepte de s’asseoir à la table des négociations, selon les conditions imposées par les États-Unis.
Aujourd’hui, bien que les résultats des négociations ne soient pas encore officiellement conclus, il semble que le sort de l’Ukraine soit déjà scellé aux yeux de tous.
***
Cet événement survient au moment même où les Vietnamiens s’apprêtent à commémorer les 50 ans de la fin de la guerre du Vietnam. Plus précisément, la chute du Sud-Vietnam — ou de la République du Viêt Nam (VNCH) — sous la conquête du Nord communiste, rendue possible par une trahison similaire de l’allié américain. En effet, les États-Unis et le Nord-Vietnam s’étaient entendus pour signer un accord soi-disant de paix le 27 janvier 1973 à Paris, décidant ainsi du sort du VNCH, pourtant acteur principal du conflit mais relégué en marge des négociations. Lors des pourparlers, la délégation du VNCH fut placée sur un pied d’égalité avec ce qu’on appelait le « Front National de Libération du Sud », alors que tout le monde savait qu’il ne s’agissait que d’une marionnette aux mains du Nord communiste.
Il est entendu que les décisions des grandes puissances à l’égard de leurs alliés dépendent toujours de leurs propres intérêts nationaux. Cependant, ce qui est douloureux, c’est la manière dont elles tournent le dos et trahissent ceux qu’elles appelaient jadis leurs amis, ceux avec qui elles ont soutenu et combattu côte à côte. Le président du VNCH, Nguyễn Văn Thiệu, lors d’une interview donnée le 29 avril 1975 à Taïwan, au lendemain de son départ forcé du pays, répondit avec amertume à un représentant du gouvernement américain :
« Il est très facile d’être l’ennemi des États-Unis, mais il est très difficile d’en être l’ami. »
L’Ukraine et le VNCH ont tous deux été abandonnés par leur allié américain alors qu’ils menaient une guerre de défense contre une invasion étrangère. La seule différence c’est que l’Ukraine a eu davantage de chance que le VNCH. La guerre du Vietnam a duré trop longtemps : plus de 58 000 soldats américains y ont perdu la vie, d’autres ont été faits prisonniers, ce qui a alimenté le mouvement pacifiste aux États-Unis. En mai 1970, ce mouvement atteignait son apogée, mobilisant plus de 4 millions d’étudiants dans les rues, certains trouvant même la mort sous les balles de la police. À cette époque, la majorité des Américains, soutenus par les deux chambres du Congrès, ne voulaient plus de la guerre du Vietnam.
Il faut aussi reconnaître, avec franchise, que les soldats et officiers du VNCH n’ont pas combattu avec la même ardeur et le même courage que les Ukrainiens. Les dirigeants ukrainiens — notamment leur président — sont très dignes. En revanche, l’Ukraine bénéficie toujours d’un large soutien populaire américain, et surtout, de l’appui constant de l’OTAN et de presque toute l’Europe. Tandis qu’au moment de la signature de l’Accord de Paris, puis après, le VNCH était pratiquement isolé. Les alliés comme l’Australie, la Corée du Sud, la Thaïlande, et même les Philippines ont également suivi les États-Unis et tourné le dos au Sud- Vietnam.
***
À cette époque, notre unité menait une opération de nettoyage dans la région de Kontum – Hauts Plateaux, après avoir remporté plusieurs victoires éclatantes contre les forces puissantes du Front B-3 dirigé par le général communiste Hoàng Minh Thảo. Avec pour slogan « nés au Nord, mourir au Sud », les communistes nord-vietnamiens utilisaient sans relâche la tactique de la vague humaine, envoyant des soldats — pour la plupart des jeunes gens et des jeunes étudiants du Nord enrôlés de force — qui se lançaient dans les champs de bataille d’une façon suicidaire comme des papillons de nuit -, étant chargés de prendre coûte que coûte la base Charlie du 11e Bataillon Parachutiste. Ce point stratégique devait ouvrir la voie aux chars T-54 équipés de missiles thermoguidés soviétiques, en direction du poste de commandement avancé de la 22e Division d’Infanterie à Tân Cảnh, afin de s’emparer du nord de la province de Kontum.
Par la suite, une force ennemie encore plus massive — comprenant les 320e et 2e divisions (puis renforcée par la 968e division venue du Laos), ainsi que quatre régiments indépendants (66, 95, 20, 24), le régiment de commandos-sapeurs 400, deux régiments d’artillerie, six bataillons antiaériens et un bataillon blindé T-54 — déferla vers le sud avec l’intention de conquérir la ville de Kontum. Leur objectif était ensuite de prendre Pleiku, siège du commandement de la IIe Région Tactique Militaire du VNCH, pour en faire un tremplin en vue d’envahir les plaines côtières. Cependant, ils furent sévèrement défaits par une force du VNCH beaucoup plus modeste : une seule division, la 23e d’Infanterie, accompagnée de trois bataillons d’artillerie et d’un escadron de chars M-41, avec un soutien crucial de l’aviation, notamment les bombardiers B-52 américains au début des combats. Cette victoire témoigne de la capacité de combat de l’armée de la République du Vietnam.
Dès la première bataille, le 14 mai 1972, sur le front nord-ouest de Kontum, les 28e et 64e régiments de la 320e Division (dite Division d’Acier) furent anéantis, ainsi qu’un bataillon de chars, mettant cette célèbre division hors de combat. Dix jours plus tard, le 24 mai 1972, lors d’une attaque simultanée contre l’évêché, le 2è Hôpital Militaire de Campagne et la zône de l’aéroport de Kontum, militaire n°2 et la zone de l’aéroport de Kontum, le 52e régiment de la 2e division (récemment transféré de Quảng Nam) fut complètement détruit et dissous. Un grand nombre de soldats du 141e régiment de cette division furent capturés ou rallièrent nos forces. (Ces défaites ont été reconnues par les communistes eux- mêmes dans leurs mémoires et ouvrages historiques.)
La victoire à Kontum à l’été 1972 par notre unité du IIe Corps, simultanément avec celles de Bình Long (IIIe Corps) et de Quảng Trị (Ier Corps), a mis en échec le projet de conquête du Sud-Vietnam par le Nord, alors que les États-Unis venaient de rapatrier toutes leurs troupes et réduisaient fortement l’aide militaire, au nom de la soi-disant « vietnamisation » du conflit.
Mais ensuite, les Accords de Paris du 27 janvier 1973 ont soufflé comme un vent empoisonné, balayant presque toutes les victoires chèrement acquises par le sang, et anéantissant l’élan de fierté qui animait nos unités après ces succès militaires. Cet accord, négocié entre les États-Unis et le Nord-Vietnam, signé sur les souffrances, l’indignation et les cadavres de nos malheureux soldats, fut en réalité le tombeau que les Américains eux-mêmes ont creusé pour enterrer vivant leur allié, l’armée et la nation du Sud VietNam.
Le Comité Nobel norvégien a connu en 1973 l’un de ses moments les plus regrettables et honteux, en prenant la décision précipitée et erronée de décerner le prix Nobel de la paix à Henry Kissinger et à Lê Đức Thọ. Cette décision fut largement critiquée dans le monde entier, y compris par plusieurs parlementaires norvégiens, ce qui poussa certains membres du comité à démissionner. Lê Đức Thọ, d’ailleurs, refusa le prix, car lui-même — tout comme le Bureau politique du Parti communiste vietnamien — savait pertinemment qu’il n’y aurait jamais de paix. Ils n’avaient aucunement l’intention de respecter les termes de l’accord, qu’ils avaient plutôt exploité avec ruse pour préparer l’invasion définitive du Sud.
L’accord prétendument pacifique ne fut qu’un cessez-le-feu de façade, à la manière d’une peau de léopard, permettant aux forces communistes de rester légalement présentes sur les territoires qu’elles venaient de s’emparer. Pendant ce temps, les États-Unis coupaient toute aide militaire au VNCH en échange du retour de leurs prisonniers de guerre, tandis que le Nord-Vietnam continuait de recevoir un soutien militaire massif de la Chine, de l’Union soviétique et du bloc communiste. Profitant de cette situation, les Nord-Vietnamiens transférèrent en masse troupes, chars, armes, munitions et carburant vers le Sud par la piste Hô Chi Minh et via le Laos, pour intensifier leurs attaques. Nous, de notre côté, devions continuer à nous battre dans des conditions de plus en plus précaires, manquant de tout — effectifs, armement, munitions, carburant, et moyens logistiques.
En repensant à cette période, je ressens soudain une profonde empathie et une même impression que le jeune soldat Paul Bäumer, personnage clé du roman À l’Ouest, rien de nouveau (All Quiet on the Western Front), le célèbre roman de guerre de l’écrivain allemand Erich Maria Remarque, bien que les faits relatés remontent à la Première Guerre mondiale, plus de 55 ans auparavant:
« Le temps passe. L’été 1918 est le plus sanglant, le plus effrayant. Le temps semble planer au-dessus de cette zone de destruction, comme des anges indifférents. Tout le monde sait que nous allons perdre cette guerre. Mais très peu l’avouent. Nous sommes en retraite. Nous manquons de troupes, de ravitaillement, de munitions. Nous n’avons plus les moyens de contre-attaquer après cette offensive générale. Seuls des ordres d’opérations continuent d’arriver – et des soldats de tomber…”
Nous, combattants sur le terrain, avons l’immense douleur de voir nos frères d’armes tomber chaque jour, fauchés dans des conditions aussi déraisonnables et injustes.
En plus de dix années passées dans une unité d’infanterie régulière, nous n’avons jamais essuyé de défaite, même dans les batailles les plus sanglantes, contre des ennemis en surnombre, mieux armés et mieux équipés — comme à Kontum. Et pourtant, soudain, nous avons été transformés en vaincus.
Plus tragique encore, qu’on ait « cassé les armes », « déposé les armes » ou non, nous avons été rangés du côté des « capitulards » sur ordre d’un général devenu président depuis trois jours à peine, s’autoproclamant commandant en chef. Plus tard, certains dirent que cet homme, pourtant général, fut bien naïf de croire aux promesses et aux manipulations de quelques-uns, dont son propre frère du côté communiste, qui lui auraient fait croire à la création d’un « gouvernement de coalition à trois composantes ». D’autres pensèrent qu’il avait pris le pouvoir uniquement pour faire une chose : capituler. Quelques-uns le défendirent, affirmant que grâce à cette reddition, un bain de sang fut évité, et certains purent fuir à temps vers Subic Bay ou l’île de Guam, en route pour les États-Unis. Mais nous, les misérables soldats , perdus dans la jungle ou terrés dans les tranchées étouffés sous les bombes, noyés dans des ordres d’opération , nous n’avions aucune idée de ces jeux politiques répugnants, ni des événements chaotiques de ces derniers jours à Saïgon.
***
En temps de guerre, la victoire et la défaite sont choses courantes. Pendant la guerre civile américaine (1861-1865), les confédérés se sont rendus aux troupes de l’Union, et pendant la Seconde Guerre mondiale, le Japon, pourtant une grande puissance, s’est incliné face aux forces alliées après les bombardements atomiques d’Hiroshima et Nagasaki. Les vainqueurs ont agi avec humanité et civilité, malgré les cruelles pertes humaines de part et d’autre – tant chez les civils que les soldats. Mais notre défaite l’a été dans trop d’amertume et de douleurs.
Nous avons été trahis par nos alliés, et abandonnés froidement . Nous avons perdu contre un ennemi indigne de victoire. Un régime libre, humaniste, civilisé et prospère a dû se rendre à un régime barbare, pauvre et arriéré. Peut-être que dans l’histoire des guerres entre l’Est et l’Ouest, il n’y a jamais eu de soldats vainqueurs qui s’assoient sur le trottoir d’une ville qu’ils venaient de s’emparer pour pleurer comme l’a fait la romancière communiste Dương Thu Hương, et bien d’autres encore. Car ils ont réalisé qu’ils avaient été trompés, qu’ils avaient gaspillé leur jeunesse à « libérer » une terre libre, civilisée, humaniste et prospère, bien plus riche que le « Nord socialiste » qu’ils venaient de quitter.
Aujourd’hui, cette guerre injuste s’est terminée il y a exactement un demi-siècle. La plupart des traces de cette guerre ont été effacées, détruites par ” le camp gagnant ” les vainqueurs, à l’exception de quelques-unes soigneusement sélectionnées et mises en valeur dans les musées pour être exhibées, à des fins de propagande. Parmi les vestiges subsistant encore, il y a les tombes abandonnées de milliers de soldats du Sud, enterrés dans des cimetières dévastés, saccagés, profanés par les vainqueurs. En réalité, ils souhaitaient anéantir tous les vestiges de cette guerre qui avait terni l’histoire de la nation, tout comme ils avaient nivelé certains cimetières militaires dans les provinces du Centre. Cependant certains cimetières majeurs ont survécu, bien que largement dévastés et renommés (comme le cimetière militaire de Biên Hòa, qui est devenu un cimetière civil local, méconnaissable). L’objectif des vainqueurs n’était pas uniquement de détruire ces cimetières mais de tirer profit de la situation pour négocier avec lesavec les États-Unis et le monde libre, et d’essayer d’imposer une illusion de « réconciliation nationale ».
Récemment, des gens ont découvert le cimetière abandonné de la 22e Division de l’Infanterie dans une région montagneuse de Bình Định. Les herbes et les détritus recouvraient presque entièrement des milliers de tombes perdues. Quelques anciens camarades et des bienfaiteurs, tant au pays qu’à l’étranger, ont lancé un appel pour contribuer à nettoyer, restaurer et reconstruire les pierres tombales. Mais, peu après, ils ont été menacés et empêchés par le gouvernement communiste. Le projet de rénovation « secrète » de certains autres cimetières abandonnés dans la région a dû être annulé.
Des milliers de camps de prisonniers ont été créés après avril 1975, dans tout le pays, pour emprisonner, torturer et éliminer près d’un million de militaires, de fonctionnaires, d’intellectuels, d’artistes, ainsi que des prêtres et des moines du Sud. Aujourd’hui, la plupart de ces camps, cachés dans des forêts denses et des montagnes profondes, ont disparu, tandis que certains grands camps urbains ont été réaménagés pour devenir des prisons d’État. Cependant, de temps à autre, des citoyens découvrent des tombes « de prisonniers politiques » cachées dans les montagnes de Lao Cai, Yên Bái, des régions isolées, avec des épitaphes en ruine, à peine visibles sous l’herbe, datant de près de 50 ans.
Un autre témoignage bouleversant : les anciens combattants blessés de l’armée sud-vietnamienne (VNCH) sont traités de façon déplorable et vivent aujourd’hui dans une misère extrême dans leur propre pays. La majorité d’entre eux sont morts avec le temps, emportés par la pauvreté et la maladie. Ceux qui restent sont désormais âgés, survivant tant bien que mal sur les trottoirs ou dans les recoins des rues. Pourtant, ils ne connaissent toujours pas la paix sous un régime dépourvu d’humanité et de sentiment national, obsédé par la haine. Grâce à la solidarité et à la gratitude de leurs anciens camarades et compatriotes de l’étranger, ainsi que de certains à l’intérieur du pays, des collectes sont organisées pour leur venir en aide. Ces fonds sont envoyés aux prêtres bienveillants de la congrégation des Rédemptoristes à Saïgon, qui organisent une ou deux fois par an des rencontres intitulées « Ensemble jusqu’à la fin de la vie » — une forme modeste de réconfort dans l’esprit de fraternité militaire et de reconnaissance envers ceux qui ont sacrifié une partie de leur corps. Pourtant, même ces gestes humanitaires ont été entravés, menacés, interdits par les autorités communistes, jusqu’à être finalement annulés.
Un témoignage encore plus marquant et vivant est la présence de plus de cinq millions de Vietnamiens ayant dû fuir leur pays, vivant aujourd’hui en exil aux quatre coins du monde. Après avril 1975, tout le Sud « vaincu » est rapidement devenu une terre morte, misérable, tragique. Les habitants avaient le sentiment d’être exilés sur leur propre sol. L’avenir n’était plus qu’un cauchemar. À l’époque, la seule chose que les gens pouvaient faire, c’était regarder vers l’immensité de la mer, dans l’espoir d’un changement venu de l’autre côté de l’horizon lointain et incertain. Quelle douleur que de voir le désir de quitter sa patrie devenir un rêve ardent ! Dans toute l’histoire tourmentée de la nation, jamais il n’y avait eu une époque où les gens ont dû abandonner leur terre natale, leur maison, les tombes de leurs ancêtres pour fuir dans la mort. Le régime communiste les a, pendant un temps, calomniés comme des traîtres poursuivant les miettes des impérialistes, pour ensuite les flatter, les courtiser, les appeler « les entrailles de la patrie à mille lieues », les « ambassadeurs » de la nation. En réalité, les communautés vietnamiennes réfugiées dans la plupart des pays libres — que le régime considère toujours comme des « forces hostiles » — ont pour la plupart connu un succès remarquable dans leurs pays d’accueil. Leurs enfants et petits- enfants réussissent dans tous les domaines : éducation, sciences, politique, armée, littérature, musique. Ils contribuent de manière significative aux sociétés d’accueil, mais représentent aussi une précieuse matière grise que le régime communiste vietnamien rêve de rapatrier.
Pendant cinquante ans, les vainqueurs ont délibérément transformé le Sud — jadis une terre libre, civilisée, prospère et belle — en une région plus pauvre, plus misérable que le berceau « révolutionnaire » du Nord. Pourtant, malgré la répression, l’appauvrissement forcé, les discriminations, le peuple du Sud a su préserver sa culture, son humanité. Le Sud reste une terre aimable, où il fait bon vivre. Des millions de Nord-Vietnamiens ont quitté leur terre natale pour chercher une nouvelle vie dans le Sud. La densité de population du Sud, particulièrement à Saïgon, a considérablement augmenté, parfois presque multipliée par cinq depuis avril 1975. Les maisons et immeubles se construisent à un rythme effréné, au point que les températures deviennent étouffantes même en hiver, et certaines rues se transforment en rivières après une simple pluie, même modérée. Même les régions montagneuses du Centre ou des Hauts Plateaux sont aujourd’hui envahies par les migrants du Nord, venus s’installer, accaparant les terres des minorités montagnardes qui y vivaient depuis des générations, au prix d’efforts et de sacrifices immenses.
En 50 ans, le système éducatif « socialiste » rétrograde et dégradé a fait sombrer plusieurs générations d’élèves bien en deçà du niveau du reste du monde. À tel point qu’une enseignante de l’Université pédagogique de Thái Bình a publiquement déclaré, lors d’une émission diffusée sur la télévision de Hanoï, que le groupe littéraire Tự Lực Văn Đoàn était une troupe de théâtre cải lương, et que Nhất Linh était un chanteur de musique traditionnelle ! Plus grave et honteux encore est l’état de corruption morale qui gangrène l’éducation, tant chez les enseignants que chez les élèves. Les affaires de professeurs harcelant ou agressant des étudiantes, ou encore les scènes d’élèves – y compris des filles – se battant entre eux, ou même s’en prenant à leurs enseignants, sont devenues tristement banales.
En particulier, la langue vietnamienne – tant à l’oral qu’à l’écrit – est modifiée de manière arbitraire et absurde, parfois dans un esprit de sinisation, comme en témoigne l’exemple du professeur Bùi Hiền et sa réforme controversée. L’histoire (et l’enseignement historique) est bâtie sur des mensonges. Le « héros » Lê Văn Tám a eu droit à des statues, des rues, des parcs et des écoles à son nom, et les élèves du pays entier ont été forcés de l’admirer comme un modèle. En réalité, il n’a jamais existé. Ce personnage fictif a été inventé par le professeur Trần Huy Liệu, président de l’Association vietnamienne des sciences historiques, qui l’a avoué plus tard au professeur Phan Huy Lê, lui demandant de révéler la vérité une fois le pays pacifié, dans le cas où lui-même ne serait plus là. Le professeur Phan Huy Lê a finalement rendu publique cette vérité en 2005. Depuis, la population est bien au courant de ce mensonge, mais le Parti et l’État n’ont jamais prononcé le moindre mot à ce sujet.
Et que reste-t-il de la littérature « socialiste » après ces 50 années, sinon quelques centaines de poèmes de propagande, flattant les dirigeants, à l’image de ceux de Tố Hữu : « Je suis à tes côtés, tu rayonnes en moi / Je grandis un peu grâce à toi… » ou encore : « Ô Staline ! / Hélas, tu es mort, ciel et terre vacillent ? / Aimer son père, sa mère, son mari / M’aimer moi-même une fois, mais t’aimer toi dix fois plus ! »
Et des chansons « rouges » comme Bác đang cùng chúng cháu hành quân (L’oncle Ho marche avec nous), Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Tiếng Chày Trên Sóc Bom Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông…, chantées encore et encore par des troupes artistiques officielles à l’occasion des grandes fêtes – que plus personne ne souhaite vraiment entendre.
Mais en parallèle, 50 ans après, les chansons d’amour du Sud – autrefois qualifiées de « musique en or» ou littéralement « musique jaune » et sévèrement interdites, au point que des chanteurs comme Toán Xồm ou Lộc Vàng furent persécutés, emprisonnés (l’un y a laissé la vie, l’autre a souffert toute sa vie) – ces chansons-là séduisent aujourd’hui irrésistiblement toutes les générations. Même les « camarades dirigeants », policiers, soldats, du Nord au Sud, des grandes villes jusqu’aux recoins les plus reculés du pays, en sont friands. Ironie du sort : la plupart de ces chansons romantiques parlent magnifiquement des soldats de l’armée sud-vietnamienne – ces soldats du « camp des vaincus ».
Dans un essai écrit le 1er janvier 2022, intitulé « Retenir un temps, préserver une vie », l’écrivain Ban Mai, un jeune intellectuel du régime (enseignant à l’Université de Quy Nhơn), écrivait :
« Le Vietnam, après 1975, a mis fin à la guerre entre le Nord et le Sud. La paix est arrivée après des décennies de deuils dus aux bombes et aux balles. Pourtant, les Sud-Vietnamiens ne pouvaient imaginer qu’allait suivre une scène d’horreur… Pire encore : le dépouillement spirituel des intellectuels du Sud, privés de la liberté d’exprimer leurs pensées, de la liberté d’accéder au savoir universel. À la place, des sessions politiques interminables, sous une seule orientation : le marxisme.
Tous les livres, journaux, œuvres littéraires et artistiques ont été confisqués, détruits ; la littérature du Sud a été totalement effacée. C’était comme à l’époque barbare de Qin Shi Huang en 210 av. J.-C. Depuis 1975, les générations nées et ayant grandi au Vietnam ignorent tout d’une littérature artistique du Sud d’une grande richesse, marquée par une floraison de genres, prônant la liberté, la démocratie, l’ouverture d’esprit et l’humanisme, en phase avec les courants du monde. »
À l’intérieur du pays, ces dernières années, un jeune homme nommé Nguyễn Trường Trung Huy, à Saïgon, a patiemment collecté des œuvres littéraires du Sud. Sa collection, toujours croissante, est impressionnante : un travail remarquable. Je suis convaincu qu’il existe, au Vietnam, de nombreuses personnes silencieuses qui recherchent et préservent discrètement une littérature humaniste qu’on croyait disparue après 1975. Aujourd’hui, les chercheurs en littérature commencent à s’y intéresser de plus en plus. Récemment, dans une épreuve de dissertation au lycée, un enseignant a proposé aux élèves d’analyser le poème Ta về (Je reviens) de Tô Thùy Yên, avec des vers profondément humains :
« Je reviens tel une feuille tombant à sa racine,
Le feu du foyer humain réchauffe cette nuit,
Ce peu de vin rosé, je le verse ici,
Pour apaiser cette vie bouleversée. »
(Tô Thùy Yên était un officier de la République du Vietnam, emprisonné près de 13 ans après avril 1975.)
Même s’il ne s’agit encore que d’initiatives isolées, ce sont des signes encourageants. Je crois qu’il ne faudra plus attendre très longtemps pour que la littérature du Sud (1954–1975) soit officiellement enseignée à l’école. Elle mérite de retrouver sa place dans le développement de la littérature vietnamienne moderne. Nul régime, nul pouvoir ne peut effacer une époque historique de la nation. Préserver, protéger et transmettre la littérature du Sud aux générations futures est notre responsabilité, à vous, à moi, à tous ceux qui aiment la langue vietnamienne, qui aiment la littérature vietnamienne. ‘
Un autre professeur vietnamien, spécialiste de littérature, a affirmé :
« Durant les deux décennies 1955–1975, sans la littérature du Sud, il n’y aurait pratiquement pas eu de littérature vietnamienne digne de ce nom. »
Le poète, enseignant et journaliste du Nord, Hoàng Hưng, dans son article « Sur l’influence de la culture du Sud (VNCH) après 1975 », après avoir longuement loué le mode de vie, la culture et la littérature du Sud, conclut :
« … si l’on observe globalement, toute la vie du Sud – y compris la vie culturelle et littéraire – a progressivement, depuis 45 ans, ‘libéré’ les habitants du Nord de cette grande prison où les gens étaient contraints d’être faux, de se forcer ou d’obéir aveuglément sous l’idéologie socialiste en temps de guerre… Aujourd’hui encore, elle continue à contribuer à l’effort douloureux de dé- communisation du pays ! Il viendra assurément un jour où le pays connaîtra une renaissance culturelle et littéraire, en poursuivant la voie tracée par la culture et la littérature du Sud : une voie de Liberté, d’Humanisme et d’Ouverture au monde. »
Après 50 ans, bien entendu, le pays a connu certains changements. Les infrastructures, notamment dans les zones urbaines, se sont développées ; la vie des citadins s’est améliorée par rapport à celle des habitants des campagnes. Cependant, en réalité, le Vietnam reste très en retard par rapport à de nombreux pays voisins. Le secrétaire général Tô Lâm lui-même a récemment déclaré publiquement : « Il y a 50 ans, dans les années 1960–1970, Singapour rêvait de pouvoir envoyer ses patients à l’hôpital Chợ Rẫy (Saïgon) pour se faire soigner ; aujourd’hui, c’est nous qui rêvons d’aller nous faire soigner à Singapour. »
Selon les statistiques du Fonds Monétaire International (FMI) pour l’année 2025, le revenu par habitant au Vietnam est de 4 986 dollars américains (USD), alors qu’à Singapour il est de 93 956 USD. Comparé à la majorité des pays d’Asie du Sud-Est, le niveau de vie des Vietnamiens reste très bas :
-Corée du Sud : 37 675 USD
-Japon : 35 611 USD
-Taïwan : 34 944 USD
-Malaisie : 14 423 USD
-Thaïlande : 7 754 USD
Pire encore, le Vietnam est en dessous de la Mongolie, un pays de steppes et de déserts, dont le revenu par habitant est de 7 576 USD en 2025.
Fait encore plus notable : dans presque tous les pays d’Europe de l’Est, qui n’ont quitté le communisme que depuis une trentaine d’années, les citoyens jouissent d’un revenu bien plus élevé que celui du Vietnam (4 986 USD) :
-République Tchèque : 33 038 USD
-Hongrie : 25 703 US
-Pologne : 25 040 USD
-Roumanie : 21 570 USD
-Bulgarie : 18 456 USD
Pourtant, la politique de « l’économie du marché (avec une queue) à orientation socialiste » a surtout permis un enrichissement rapide de la majorité des membres du Parti, de leurs familles et de leurs réseaux, créant une classe de capitalistes rouges, élargissant le fossé entre les riches (le Parti) et les pauvres (le peuple). Cela va à l’encontre des objectifs de lutte des classes que le Parti communiste avait autrefois revendiqués en menant des campagnes de dénonciation et d’exécutions sanglantes contre des dizaines de milliers d’innocents pendant la réforme agraire. Cela dévoile aussi le caractère mensonger de la soi-disant libération du Sud, et la brutalité de la politique visant à anéantir les « capitalistes compradores » juste après la prise de Saïgon.
Cet enrichissement soudain (et illégitime) de la classe des capitalistes rouges a entraîné la dégringolade de secteurs entiers : éducation, culture, santé, ainsi qu’une corruption morale, sociale et même religieuse. Surtout, la corruption généralisée, bien ancrée jusque dans les plus hautes sphères du Parti communiste — des généraux, vice-ministres, premiers ministres jusqu’au président — est devenue un fléau national incurable. Le pouvoir se transmet de manière féodale, de père en fils, dans une logique de dynastie familiale. Le Parti se place au-dessus des lois, s’empare de toutes les ressources du pays, et ses membres vivent dans l’opulence, sur le dos d’un peuple appauvri. Leurs enfants, les « graines rouges », sont envoyés étudier dans des écoles privées prestigieuses à l’étranger — bien sûr, financés par l’argent de l’État ou issu de la corruption — pour se préparer à leur futur rôle de succession.
Un ancien Premier ministre (devenu président) a même osé fanfaronner : « Le Vietnam est aujourd’hui l’un des pays les plus agréables à vivre. Même un poteau électrique à l’étranger, s’il avait des jambes, reviendrait au Vietnam. » (sic!) Pendant ce temps, des dizaines de milliers de jeunes femmes sont contraintes de quitter leurs parents, leurs amours, pour aller épouser de vieux hommes malades ou handicapés à Taïwan, en Corée du Sud… comme de véritables esclaves, parfois sexuelles. Beaucoup d’entre elles perdent tout contact avec leurs familles ; certaines sont assassinées, d’autres vendues dans des bordels. Dans plusieurs pays asiatiques, des annonces de « vente de femmes vietnamiennes » sont publiées, à des prix ridiculement bas, comme s’il s’agissait de jouets. Jamais dans l’histoire du pays, même lors des périodes d’occupation ou de misère, la condition des femmes vietnamiennes n’avait été aussi avilissante et tragique.
Le gouvernement a aussi « exporté » des centaines de milliers de travailleurs vers le monde entier, même dans des pays pauvres d’Afrique, dans le but de survivre et de rapporter des devises. Malgré cela, les vagues de départ clandestin continuent, certaines personnes mourant étouffées dans des camions frigorifiques, d’autres vivant dans les forêts, cultivant de l’opium avant d’être arrêtées, car aucun pays n’est prêt à les accueillir. Un épisode honteux a eu lieu début décembre 2018, lorsqu’un groupe de neuf personnes accompagnant la présidente de l’Assemblée nationale Nguyễn Thị Kim Ngân en visite officielle en Corée du Sud a tout simplement pris la fuite dès leur arrivée sur le sol étranger. Et que dire de ceux qui partent à l’étranger pour voler, ou pour se prostituer — au point que le passeport vietnamien est devenu, dans certains milieux, synonyme d’humiliation nationale.
Exactement 50 ans après, à Saïgon, le régime communiste vietnamien s’active depuis plusieurs mois pour préparer en grande pompe la célébration de la “réunification” du pays. Un défilé militaire à grande échelle est prévu, avec un budget estimé à plusieurs dizaines de millions de dollars américains, toujours accompagné des chants belliqueux comme “prêter serment de déchiqueter l’ennemi et de boire son sang”, des slogans tels que “chasser les Américains, écraser les marionnettes”, dans une ambiance fiévreuse de fierté arrogante et de haine vindicative.
Pendant ce temps, certains anciens soldats ayant participé à l’armée de libération – ceux qui suivaient les pas de l’écrivaine Dương Thu Hương (connue pour avoir pleuré sur le bord de la route en découvrant qu’elle avait été trompée, utilisée pour tuer ses compatriotes et détruire un Sud Vietnam à la fois humaniste, cultivé et prospère) – expriment aujourd’hui un profond remords. C’est le cas du vétéran Bình Ngọc, à travers son poème “Pardon Avril !” :
À l’époque de ma jeunesse,
j’ai mis de côté les livres, mes rêves… pour partir “combattre les Américains !”
Le fusil sur l’épaule, le sang rouge dans le cœur !
Raison aveuglée ! J’ai traversé les montagnes Trường Sơn avec rage.
Nuit après nuit, jour après jour, mes chaussures usées, mes vêtements trempés de froid.
Ma mère, le dos courbé, se vidait de son énergie, épuisée, attendant le retour de son fils !
Le “30 avril” du camp des vainqueurs, j’étais euphorique :
Je devenais un “soldat arrogant” de l’armée “libératrice” !
Mais ! Trente-huit ans plus tard, je suis complètement désabusé !
Je ne comprends plus qui nous avons libéré ?
Au sommet, que des incapables !
À la base de la société, des citoyens spoliés de leurs terres !
Des injustices, des catastrophes… empilées !
Le fossé entre les riches et les pauvres s’élargit chaque jour.
Ceux du Nord n’ont plus d’attachement pour leurs “étangs d’enfance”,
ils déferlent vers le Sud, s’approprient tout – montagnes, forêts, marchés, villes, immeubles… !
Partout où je vais, je ne croise que des gens “du Nord”.
…
Leurs maisons, leurs terres au Nord, ils les laissent à l’abandon ?
Mon village natal, si beau – làng Vàng,
Avec sa pagode, ses digues, ses rizières mielleuses !
Pourquoi donc tant de gens ont-ils tout quitté pour courir vers le Sud, s’entasser, chercher le luxe ?
Moi…
…
Depuis quelques années, je suis un fugitif,
Fuyant mes erreurs passées…
Chaque mois d’avril, je repense au Sud.
Pardon, Avril !
Pardon, Sud bien-aimé, pour ce que j’ai fait !
Pardon à tous !
Y compris à ceux du “camp des vaincus”…
Que puis-je faire ?
Aucun de nous ne choisit l’époque dans laquelle il naît.
Mais ! Il faut que la vérité et le mensonge, le bien et le mal, soient clairement distingués !
Pardon, Avril !
Pardonne-moi, sincèrement – ce n’est pas un mot creux.
De même, Trần Đức Thạch, ancien chef d’unité de reconnaissance du 8e bataillon, régiment 266, division 341, 4e corps d’armée, a exprimé dans plusieurs poèmes – notamment “Je demande Pardon au Sud” – un même désespoir :
Je suis né au Nord
Je ne savais même pas à quoi ressemblait l’ennemi.
On m’a enseigné
À haïr cet ennemi… ?
On m’a dit, en tant que Nordiste,
que je devais aimer mes compatriotes du Sud,
nos frères et sœurs, opprimés,
sous la botte des Américains et de Diệm…
Les fils de paysans, simples et honnêtes,
endossèrent l’uniforme, prirent les armes, partirent…
Pleins de foi naïve qu’ils défendaient la patrie
En repoussant l’envahisseur…
Une fois le pays “réunifié”, nous découvrîmes, ébahis :
“Nous avons combattu notre propre peuple !
Le Sud était riche, les gens y vivaient civilisés,
Il n’y avait pas cette faim chronique comme au Nord…“
Une haine immense envers ceux qui ont volé ma jeunesse,
Me faisant croire que mon propre peuple était l’ennemi !
Repentir
Notre génération croule sous les fautes,
Face à nos enfants et petits-enfants, un profond sentiment de honte…
Notre génération, un temps de guerres et de combats,
Notre victoire : chasser la civilisation
Notre victoire : faire souffrir notre propre peuple,
Donner le pouvoir aux imposteurs, aux criminels.
Notre génération s’est complètement égarée,
Oubliant sa nation pour suivre le marxisme-léninisme.
Un esprit malade, une pensée tordue,
Qui a semé la haine dans le cœur de nos descendants.
Notre génération a versé tant de sang,
Pour rien, puisque le peuple est toujours en détresse.
Pour rien, puisque le pays est en ruines,
Et que notre territoire est lentement rongé par l’envahisseur.
Notre génération a connu une vie pleine d’amertume,
Perdu notre être, et légué un crime à l’avenir…
***
Quant aux soldats du Sud, après tant d’années de prison, d’humiliation, leurs familles brisées, dispersées aux quatre coins du monde – ceux qui ont survécu sont aujourd’hui âgés, pour la plupart autour de 80 ans. Mais les blessures de cette guerre malheureuse, elles, ne cessent jamais de brûler dans leurs cœurs. Une jeunesse engloutie dans les combats, des moments d’honneur, de souffrance, d’injustice au moment de déposer les armes. Des dettes de sang, de fraternité, envers des camarades tombés, qui ne seront jamais réglées… et qu’ils emporteront dans le silence vers l’au-delà.
Permettez-moi de partager ce témoignage d’un camarade aîné, un ancien officier, jeune et valeureux à l’époque :
« Avec les années, l’âge s’accumule, la santé décline, les élans de la jeunesse s’éteignent lentement. Je ressens un vide, une dérive dans ma propre existence. Chaque année, un camarade de moins, puis viendra un jour où ce sera mon tour. Cette évidence n’est pas ce qui m’angoisse — c’est la loi de la nature.
Ce qui me trouble, c’est le sens de ma vie, de notre génération, À travers ce que nous avons fait, ce que nous avons enduré… Est-ce que tout cela a eu un sens ?
Ou alors, rien du tout ? »
Avril 2025
Phạm Tin An Ninh
Traduction de Nguyễn duy Vinh avec ChatGPT (Toronto)
et quelques retouches de tta 2/5/2025 (Montreal)
====
Pingback: 50 NĂM – CÒN ĐÓ NỖI BUỒN (Phạm Tín An Ninh) | Vinh Danh QLVNCH và Bảo Vệ CỜ VÀNG
Cám ơn tác giả PTAN đã viết ra những nỗi nặng lòng dù đã 50 năm rồi!.
HHN
Pingback: 50 NĂM – CÒN ĐÓ NỖI BUỒN – Chính Luận Hải Ngoại