Nếu giải phóng là gạt bỏ những trói buộc thì sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 đã giải phóng nhiều người tham gia hoặc có liên quan đến công cuộc mệnh danh “giải phóng”.
***
Càng ngày sự tự hào của Đảng CSVN về “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” càng giảm.
Càng ngày càng nhiều người thuộc “bên thắng cuộc” trải lòng – kể lại công khai, chính xác những gì mà họ biết một cách tường tận hay những gì mà họ cảm nhận về công cuộc “giải phóng”.
***
Dịp 30 tháng 4 năm nay, facebooker Võ Đắc Danh – con của một “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, người có chồng và hai con trai hy sinh trong công cuộc “giải phóng” – kể rằng, sự hãnh diện trong ông vì những đóng góp của cha anh mình cho cách mạng chỉ kéo dài chừng hai năm. Sự hãnh diện ấy bị bào mòn từ việc mẹ ông, sau một thời gian dài giấu lúa nuôi cách mạng, phải tiếp tục giấu lúa để không bị cách mạng tịch thu. Sự hãnh diện tiếp tục sụt giảm khi ông chứng kiến một người bạn phải bỏ dở việc học vì gia đình bị quy kết là tư sản, mất nhà và những căn nhà bị tịch thu như thế được cấp lại cho những bạn bè mà cha mẹ tham gia công cuộc “giải phóng”…
Những chuyện như thế càng ngày càng nhiều và đó là lý do Võ Đắc Danh liên tục từ chối gia nhập Đảng CSVN để được “qui hoạch” làm lãnh đạo. Trong một status chừng vài trăm chữ với tựa là “Giải phóng để làm gì” trên trang facebook của mình, Võ Đắc Danh kết luận: “Nếu như năm 1975 tôi hãnh diện vì ‘lý lịch đỏ’ thì bây giờ, sau 42 năm, tôi hãnh diện vì quyết định từ chối vào đảng của mình”.
Facebooker Nguyễn Quang Lập – một nhà văn nổi tiếng – đăng lại status “Sài Gòn giải phóng tôi” mà ông từng viết hồi năm ngoái. Nguyễn Quang Lập tròn 19 tuổi đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhờ sự thông thương giữa Nam với Bắc, cậu sinh viên miền Bắc – nơi khởi xướng và kết thúc thành công “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” – cùng bạn bè đồng lứa mới biết đến bút bi, mì gói và máy cassette.
Cũng kể từ đó thành viên của “gia đình bảy đảng viên cộng sản” mơ được đến Sài Gòn. Tháng 8 năm 1976, khi vào Sài Gòn thăm người bác ruột, buổi sáng đầu tiên tiếp xúc với dân chúng Sài Gòn, Nguyễn Quang Lập sửng sốt khi thấy bà chủ tiệm tạp hóa thưa, gửi với khách, bỏ hàng hóa vào bọc nylon, cột lại cẩn thận… Nguyễn Quang Lập tiếp tục sững sờ khi thấy trong đống sách cũ bày bán trên vỉa hè có cả “Tư bản luận”, “Hành trình trí thức” của Karl Mark do các nhà xuất bản ở Sài Gòn in và phát hành từ thập niên 1960.
Facebooker Nguyễn Quang Lập kể rằng ông chỉ có 30 buổi sáng như thế ở Sài Gòn, nhiều chuyện tưởng như rất nhỏ nhưng lại tạo nơi ông những cảm nhận lớn lao, khác thường. Vào thời điểm đó, ông không cắt nghĩa được đó là gì song khi quay ra Hà Nội, ông bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, nói khác đi. Tuy bạn bè ngày đó gọi ông là thằng hâm, thằng lập dị nhưng ông “rất vui vì biết mình đã được giải phóng”.
Nguyễn Quang Lập viết “Sài Gòn giải phóng tôi” sau khi bị tạm giam gần ba tháng với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” rồi được phóng thích vì đã “cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.
Khác với Võ Đắc Danh và Nguyễn Quang Lập – chỉ có “quan hệ liên đới”, facebooker Đinh Hữu Hanh là người trực tiếp cầm súng, tham gia “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Đinh Hữu Hanh chỉ có chừng 700 người bạn trên facebook. Đa số bạn bè của Đinh Hữu Hanh hoặc là cựu chiến binh như ông, hoặc là thân nhân của các cựu chiến binh.
Trang facebook của Đinh Hữu Hanh đáng chú ý vì nó là nơi đăng “Ký ức một thời bi tráng” – thời người Việt được Đảng CSVN điều động từ Bắc vào Nam thực hiện công cuộc “giải phóng”.
“Ký ức một thời bi tráng” do Đinh Hữu Hanh viết có nhiều kỳ – hiện đang ngừng ở kỳ thứ 29.
“Ký ức một thời bi tráng” có nhiều điểm đặc biệt. Nó được những độc giả vốn là đồng đội cũ của Đinh Hữu Hanh “giám sát”, góp ý trực tiếp để tác giả sửa chữa, bổ sung. Từ câu chuyện của những giảng viên, sinh viên Đại học Sư phạm Vinh bị biến thành lính, tới hoạt động của Trung đoàn 6, Quân khu Trị Thiên từ 1972 đến 30 tháng 4 năm 1975,… làm người ta vừa ngậm ngùi, vừa ngỡ ngàng, song đáng chú ý nhất vẫn là những bình luận. Mức độ của sự cay đắng nơi những người lính “giải phóng” tăng dần, không có điểm dừng từ lúc bị buộc cầm súng cho tới nay.
Chưa biết đến lúc nào thì “Ký ức một thời bi tráng” hoàn tất nhưng facebooker Nguyễn Kỳ Nam – một hậu sinh – đã gom các kỳ của hồi ký này vào một chỗ và giải thích lý do là vì: Những ngày này ký ức của những người lính năm xưa lại ùa về. Có niềm vui và cả những nỗi buồn. Có nụ cười, có nước mắt cùng cả sự hối tiếc. Nhiều người lính ở cả hai phía đã nhận ra kẻ thù của họ là ai và cuối cùng chỉ có nhân dân chúng tôi là người thua cuộc.
Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.