Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa ( Vũ Thế Thành) & Văn học Việt Nam Cộng Hòa: 20 năm “chói sáng” và “huy hoàng” (Hoàng Hưng)

  VŨ THẾ THÀNH      

Cô bạn (trẻ) tặng tôi quyển sách của Erich Maria Remarque, bản dịch trước 75 mà em kiếm được ở tiệm sách cũ. Remarque là nhà văn người Đức mà có thời tôi “ngốn” hầu như không sót cuốn nào. Ông viết như thì thầm kể chuyện, chẳng lý luận, triết lý gì cao siêu cả, nhưng rất buồn, và rất người. Thời Hitler, Remarque phải sống lưu vong, tác phẩm bị cấm và bị đốt. Bây giờ, cầm sách của ông trên tay, tôi lại nhớ đến thời sau 1975, thời sách bị cấm và bị đốt ở Sài Gòn.

Sách bị tịch thu, chất đống lên xe ba gác chở đi thì tôi chứng kiến, còn có đem đốt hay không thì tôi không thấy.

Tôi cũng phải “cúng dường” vài chục cuốn sách (cũng còn giấu được một mớ), trong đó có hai quyển của Remarque: “Chiến hữu” và “Một thời để yêu, một thời để chết”. Có phải thừa tiền đâu mà mua sách làm kiểng. Toàn là tiền “bán cháo phổi” ngoài giờ, cân nhắc lắm mới dám mua một quyển, còn không thì thuê sách đọc. Đêm chia tay, cạn nguyên xị rượu đế. Sách “đồi trụy phản động”, nọc độc văn hóa đế quốc Mỹ mà như tình nhơn, quẳng xuống, rồi lại cầm lên mân mê, thì thầm, “Mai tao sẽ chất đống ngoài cửa để người ta mang tụi mày đi hóa thân thành tro. Duyên đến đây là hết, nhưng nợ còn. Tao sẽ nhớ tụi mày. Nợ thằng nào nhiều, tao nhớ thằng đó nhiều…”

Hơn 40 năm nay đâu có đọc lại Remarque, vậy mà dạo này thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ, dù nhớ tên người này xọ tên người kia, dù nơi này biến thành nơi nọ, nhưng đại khái tình tiết chưa quên sạch. Vẫn nhớ. Nhớ và ngẫm.

Sách khoa học kỹ thuật được phép giữ lại, nhưng cũng có cách ra đi của nó. Một trường hợp tôi biết, ảm đạm hơn là tôi chia tay “đồi trụy phản động”. Một giáo sư tu nghiệp ở Mỹ về một ngành kỹ thuật. Ông được xem là hàng đầu trong lãnh vực đó ở miền Nam lúc đó, khi về nước đem theo một số sách chuyên môn, coi như gia sản nghề nghiệp. Vài năm sau 75, ông âm thầm bán sách trang trải cuộc sống. Thằng bạn tôi, một kỹ sư trẻ, gom hết tiền dành dụm, rụt rè tìm đến nhà vị giáo sư mua quyển sách ao ước và cũng nhân thể ra mắt, trò chuyện với thần tượng. Giáo sư đóng cửa phòng, không tiếp, chỉ cho vợ ra, đưa sách và báo giá. Tên hậu bối trả tiền, cầm sách thờ thẫn ra về. Giao dịch diễn ra lặng lẽ đến nặng lòng, cứ như thời Đông Châu liệt quốc. Đời cơm áo sinh tồn, sao mặn chát thế này!

Với dân kỹ thuật thì sách technology và handbook của Mỹ sánh ngang hàng… thê tử. Có những ngày tháng tôi đã cày cục copy bằng tay, vừa viết, vừa dịch nhẩm trong đầu một quyển handbook mượn được, nên hiểu được loại sách đó trân quý với dân trong nghề đến cỡ nào. Vật bất ly thân mà phải chia tay thì còn tê tái nào hơn. Đã đành, bán cái mình sở hữu để sinh tồn đâu có gì phải thẹn, nhưng bán sách, bán cái gia sản nghề nghiệp, thì chẳng khác gì bán cả ước mơ, hoài bão… Ông giáo sư biết thẹn. Tên hậu bối biết thẹn, biết thẫn thờ, biết chia sẻ cái thẹn với tiền bối. Trí thức là người biết thẹn. Tôi gọi cả hai là trí thức.

Nhưng không phải “trí thức” nào cũng biết thẹn. Đâu cần phải “diện bích” cả chục năm như ai đó mới ngộ ra một chủ nghĩa sai hay đúng, hiện thực hay mụ mị. Mẹ tôi, một người đàn bà mù chữ (nghĩa đen), thấy người ta đấu tố nhau trong cải cách ruộng đất, con tố cha, vợ tố chồng… bà hãi, hãi cho đến chết vẫn còn hãi. Với bà, nghèo chịu được, khổ chịu được, đói chịu được, nhưng đảo lộn luân thường đạo lý như thế thì không… Liệu cứu cánh có biện minh cho phương tiện được chăng? Mà cứu cánh gì? Là ấm no hay quyền lực? Ngay cả về mặt kinh tế, trong thời chiến tranh lạnh người ta cũng đã thấy cái “ưu việt” của làm chủ tập thể và hưởng theo nhu cầu rồi.

Hoài bão hay lựa chọn của con người, nhiều khi khởi đầu bằng cảm xúc hơn là lý trí. Lý trí đến sau đó để hợp lý hoá hậu quả của cảm xúc. Nhưng lý trí cũng giúp con người phản tỉnh để nhận ra mình đã làm đúng hay sai. Sai lầm là thuộc tính của con người. Trí thức là người biết sai, biết thẹn để sửa sai.

Nhưng nhiều người tuyên bố, nếu được làm lại từ đầu, họ vẫn lựa chọn như cũ. Thật đẹp và lãng mạn! Thế ra, phản tỉnh chỉ bộc phát khi hậu quả của cảm xúc bị thiệt thòi thôi sao? Chọn cái xấu, đập cho chết cái ít xấu hơn là đúng, là đẹp?

Nhưng chiến tranh, đau thương, mất mát, độc lập (thật sự), đói nghèo, số phận của một dân tộc đâu phải là chuyện lãng mạn.

Một bậc đàn anh đồng môn của tôi, trước 1975 phụ trách vài mục âm nhạc, văn hóa cho đài phát thanh, mà cũng là tay sừng sỏ trong giới xuất bản. Sau 1975, khốn đốn vô cùng, nhưng đoạn tuyệt hẳn với nghề viết lách, làm chân lon ton, chạy vặt cho một nhà xuất bản. Vài năm trước, gặp ông giám đốc mới có mắt nhìn người, cất nhắc cho làm biên tập sách. Ông huynh trưởng mắc bệnh “muội đèn” của Cao Bá Quát, thấy đoạn văn hay nhưng phạm húy, tiếc, không nỡ cắt. Ông anh không cắt, thì đời cắt ông anh. Ông lại tiếp tục làm chân lon ton. Thân già bốn mươi ký lô, tính luôn giày dép và quần áo, đã bền bỉ chọn một thái độ sống như thế. Người ta có thể không cho viết, nhưng không thể bắt mình viết theo ý người ta. Ngòi bút có máu, báo chí sách vở còn lưu giữ cả đấy, không chơi bài ba lá với lịch sử được đâu.

Cô bạn tặng tôi quyển sách của E. M. Remarque là dân… “gia công”, một từ lóng để chỉ con cái của những người tập kết ra Bắc hồi năm 54. Bọn trẻ sinh ra ở Bắc và trở về Nam sau 75. Tôi hỏi đùa,

“Thế em là dân Sài Gòn hay người Hà Nội?” – “Là dân Sài Gòn chứ! Hà Nội chỉ là nơi cha mẹ “gia công” ra em thôi. Em lớn lên ở Sài Gòn, học Tiểu học ở Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn…”

Tội nghiệp! Sài Gòn khi em lớn lên đã là thành phố buồn hiu, dè dặt và nhẫn nhục, một thành phố “trầm cảm” với dăm ba người mất trí nghêu ngao hát bên hè phố, hay những người một thời cầm bút, cầm phấn, bây giờ đạp xích lô, vá xe đầu đường, bơm mực bút bi…

Đầu thập niên 80, sách cũ loại tự điển hay kỹ thuật được bày bán công khai, nhưng sách “đồi trụy phản động” thì phải lén lút. Hồi đó làm nghiên cứu, tôi thường ra… chợ trời sách ở đường Đặng Thị Nhu. Chỉ một sạp duy nhất có quyển “Handbook of Chemical Engineers”, giá bốn chỉ vàng. Khi cần tra cứu là tôi đến đó giả vờ xem sách, ráng nhớ mấy con số, rời xa xa khỏi sạp là rút sổ tay ghi lại. Đến riết, chủ sạp quen mặt biết ý, chỉ tay, “Cầm lấy, đọc thoải mái!” Có một cảm thông kỳ lạ giữa người mua, kẻ bán và tên đọc sách “cọp”.

Phước đức bảy đời là những người buôn bán sách cũ. Họ chứng kiến những khoảnh khắc chia tay não lòng của người bán, và những thèm thuồng tri thức của người mua. Chợ sách (cũ) khác chợ đời. Chợ buồn bã, trầm mặc như số phận đời người… Những dấu son chữ ký còn trên sách hẳn đã làm kẻ bán đoạn lòng, người mua nao lòng. Đọc mà lúc nào cũng bồi hồi nghĩ đến chủ nhân trước của sách…

Cô bạn tôi, Sài Gòn có gì để em tự hào về gốc gác? Cha mẹ em là cán bộ trí thức, nên nhà nhiều sách “ngụy” (để tham khảo) hơn là máy móc tiện nghi… Em đọc lén. Khổ thân em! Những gì em đọc khác với những gì em học ở trường. Đó là chưa kể họ hàng em nội ngoại, bên thua, bên thắng (cuộc)… Trong lớp học, em phải viết ra những điều không phải em nghĩ. Nói và làm, đúng và sai, khẩu hiệu và thực tế cứ lộn tùng phèo trong đầu. Những thực tế tréo ngoe làm em có đôi chút phá rào, cảm nhận đúng sai. Em tự hỏi, nhưng ai trả lời?

Làm việc ở nước ngoài gần hai mươi năm, ngày trở về, em thấy một Sài Gòn hào nhoáng hiện đại nhìn đâu cũng thấy building, cầu vượt… nhô lên từ những bãi nhà tôn, ổ chuột. Có những người giàu nhanh quá, siêu nhanh giữa bầu không khí ô nhiễm (đen lẫn bóng). Hàng rong bị săn đuổi giữa những hàng xe hơi lộng lẫy. Em đứng tần ngần ở quán cà phê đường Huỳnh Tịnh Của, ngắm nghía căn nhà cũ kỹ gần sáu bảy chục năm. Đẹp quá! Chẳng còn là bao những căn nhà xưa như thế này, cũng không còn những con phố yên tĩnh. Mọi thứ ồn ào và tương phản đến lạ lẫm. Em thở dài, Sài Gòn bây giờ như bức tranh lập thể siêu thực. Sài Gòn không còn là Sài Gòn của em nữa. Sài Gòn muộn màng của em cũng không còn, thì Sài Gòn một thời của tôi ở đâu?

Có lần em buột miệng, “May mà cha em mất rồi, chứ nếu còn sống…” Em không phải là người duy nhất nói với tôi điều đó. Vài bạn bè tôi, cha mẹ họ thuộc hàng “công thần”, trong những lúc trà dư tửu hậu cũng nói thế. Độc lập là khát khao của cả dân tộc, chứ đâu phải của riêng ai. Độc lập bị tham vọng quyền lực đánh lận nên mới ra nông nỗi thế này. Người bạn (già) của tôi ở Hà Nội nói: “Các anh bị đau một, chúng tôi bị đau những hai lần.”

Tôi là độc giả thầm lặng của facebook “CLB cuộc chiến chống ung thư”, nơi những con người tuyệt vọng chia sẻ với nhau từng mẩu hy vọng. Trong đó có một status thế này: “Cha tôi đã không qua khỏi, còn một ít thuốc giảm đau, bạn nào cần, tôi xin tặng lại.” Đọc mà nhòe cả mắt…

Những bìa sách tiêu biểu trong Tủ Sách Tiếng Việt

Quyển sách cô bạn tặng, “Tình yêu bên bờ vực thẳm”, bản dịch của Huỳnh Phan Anh, chỉ lật vài trang đầu, tôi đã nhận ra một Remarque quen thuộc: …Hãy để tôi đi, nàng thì thầm. Ravic không nói gì, siết chặt tay nàng hơn nữa. Ravic có cảm tưởng nàng không trông thấy chàng, và xuyên qua chàng, dường như nàng đang nhìn vào cõi xa xăm nào đó, trong đêm tối trống vắng.

Con người trong tác phẩm của Remarque thường là những số phận bị săn đuổi, với những ước mơ, tính toán thật giản dị và tử tế. Tử tế với những người bạn tình cờ biết nhau một đêm, tử tế cả với chính kẻ thù của mình. Con người bị săn đuổi, nên lúc nào cũng vội vã, họ cảm nhận được giá trị của chia sẻ, của khoảng khắc tồn tại và yêu thương.

Một thời triết lý vụn đã qua, mọi thứ đã lụi tàn trong ngọn lửa “đồi trụy và phản động”. Hồi trước đốt sách, nhưng liêm sỉ còn kháng cự ít nhiều. Bây giờ liêm sỉ bị thiêu rụi bởi thực dụng, bởi đạo đức giả, bởi diêm dúa của đồng tiền và quyền lực. Con người bị cầm tù bởi “hiệu ứng” Stockholm mất rồi!

Trong “Một thời để yêu, một thời để chết”, tôi nhớ lõm bõm câu (đại ý: Không cần phải cứu vãn những giấc mơ, mà phải cứu vãn niềm tin. Niềm tin còn, thì giấc mơ tự nó sẽ phục hồi.

Bốn mươi sáu năm rồi đấy! Cuộc đời có khi tràn ngập những tuyệt vọng, nhưng đúng là niềm tin cần được cứu vãn. Tôi cần niềm tin. Đất nước này cần niềm tin. Niềm tin sự thật sẽ không bị vùi lấp. Niềm tin cái xấu sẽ bị đào thải: Nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.

VŨ THẾ THÀNH

Đà Lạt vào Thu 2021

Nguồn: Học Xá

===================================================

Văn học Việt Nam Cộng Hòa: 20 năm “chói sáng” và “huy hoàng”

Hoàng Hưng

( Nhà thơ Hoàng Hưng, sinh trưởng tại Hưng Yên, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1965. Từ năm 1973 đến năm 1982 ông là phóng viên, biên tập viên báo Người Giáo viên Nhân dân thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo. Bị bắt giam và tập trung cải tạo vì cầm tập bản thảo thơ “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm và những bài phác thảo thơ trong nhật ký của mình (8/1982-10/1985)

Quốc Phương, cộng tác viên RFA Tiếng Việt từ London
2023.04.27

Văn học Việt Nam Cộng Hòa: 20 năm "chói sáng" và "huy hoàng"
Nhà thơ Hoàng Hưng tháng 01/2023  

Nền văn học của Việt Nam Cộng Hòa trải dài hai thập kỷ ở miền Nam Việt Nam trước đây xứng đáng được đánh giá là một chương sử “chói sáng” và là một thành tựu “rất huy hoàng” trong toàn lịch sử văn học Việt Nam và thời kỳ hiện đại, một ý kiến từ trong giới văn học, nghệ thuật và báo chí độc lập tại Việt Nam nêu quan điểm với Đài Á Châu Tự Do hôm 26/4/2023.

“Cũng như tất cả những người yêu văn học mà không có định kiến gì về chính trị, tôi nghĩ rằng mấy mươi năm của nền văn học của Việt Nam Cộng Hòa phải nói là một chương sử quá chói sáng trong lịch sử của nền văn học Việt Nam nói chung và văn học hiện đại Việt Nam nói riêng,” từ Sài Gòn, nhà thơ, dịch giả, nhà báo Hoàng Hưng chia sẻ nhận định trên quan điểm riêng với RFA Tiếng Việt, trong dịp 48 năm biến cố 30/4/1975 của Việt Nam đang được đánh dấu.

Theo nhà thơ Hoàng Hưng, nền văn học Việt Nam Cộng Hòa vốn trải dài trong giai đoạn từ 1954-1975 có kích thước, tầm vóc “rất lớn” với ít nhất năm đặc điểm mà theo ông là nổi bật. 

“Thứ nhất, đó là một thời kỳ mà văn học phát triển rất mạnh mẽ và so sánh kể cả với văn học thời kỳ tiền chiến, nền văn học này cũng vượt trội hẳn, có thể thấy ngay qua số lượng tác giả được ghi nhận có tên tuổi cũng tới vài trăm, hay là về số lượng các tạp chí chuyên về văn học, cũng có hàng chục tạp chí trong số đó có nhiều tờ rất nổi tiếng. Cũng từ đó, có thể thấy tính chuyên nghiệp của nền văn học trong thời kỳ này rất cao. Chuyên nghiệp ở chỗ nào, tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ là số lượng tác phẩm của từng tác giả rất lớn…

Đặc điểm thứ hai là sự phong phú, đa dạng, rất nhiều giọng, nhiều chiều, nhiều tư tưởng, nhiều quan điểm, mà có cái hay là đều chung sống hòa bình với nhau, không hề có sự đố kị hay là đàn áp nhau. Một thí dụ quan trọng nhất là ở tư tưởng chính trị chẳng hạn, có thể thấy trong hàng ngũ nhà văn miền Nam cũng đa dạng… 

Về phương pháp, sáng tác và phong cách cũng thấy rất đa dạng, phong phú, vẫn còn sót lại của chủ nghĩa lãng mạn, rồi dân dã, sự trở lại của cổ phong, rồi tả thực, siêu thực v.v…, tức là có đủ các phương pháp và phong cách. Chỉ cần nói về thơ chẳng hạn và nêu vài cái tên đã thấy sự khác nhau ghê gớm thế nào, ví dụ Thanh Tâm Tuyền, đến Tô Thùy Yên, Nguyễn Đức Sơn, đến Bùi Giáng, đến Nguyên Sa, rồi Phạm Thiên Thư. Có thể thấy sự khác nhau là ghê gớm, từ thơ tự do, thơ cổ phong, thơ lục bát, thơ văn xuôi, chung sống thoải mái.

Đặc điểm thứ ba, đây là một nền văn học thấm đẫm tinh thần tự do và nhân bản, không mang một ý đồ phục vụ chính trị nào, có thể nói nhiều lúc tạo cảm tưởng là “phi chính trị” … Tinh thần phi chính trị như thế đương nhiên có nhiều yếu tố có lợi cho đối thủ. Trong khi ngược lại, ở miền Bắc là một nền văn học hoàn toàn tuyên truyền, tuyên truyền cho chiến tranh, chiến đấu mà có người còn dùng từ thậm xưng lên là một nền “văn học trại lính”. Tinh thần của văn chương Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ này là như thế, không có chính trị, nhưng tất cả những gì thuộc về con người thì đều được tự do bộc lộ, không có một ngăn cản, hạn chế gì.”

vanchuong01.jpg
“Giai Thoại Làng Nho” của Lãng Nhân do nhà Nam Chi Tùng Thư xuất bản tại Sài Gòn năm 1964 và cuốn “Giai Thoại Văn Chương Việt Nam” của Thái Bạch do nhà sách Xuân Thu xuất bản năm 1958. Ảnh: Quốc Phương/RFA

Một nền văn học tự do, nhân bản đúng nghĩa

Tới đây, trên tư cách tự nhận là một người có điều kiện đọc khá nhiều về văn học Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1954-1975 mà không phải là một nhà lý luận, hay phê bình, nhà thơ Hoàng Hưng mở một dấu ngoặc về vấn đề kiểm duyệt, ông so sánh điều này giữa hai nền văn học ở hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối nghịch nhau trên mảnh đất Việt Nam thời kỳ đó, ông nói:

“Trong ý này, có một điều liên quan sự kiểm duyệt, ở miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa có một hệ thống kiểm duyệt công khai, nhưng nhiều nhà văn thuật lại nói hệ thống này chỉ kiểm duyệt những gì quá bất lợi cho chính quyền, mà người ta cũng chỉ “bỏ đi một số dòng, câu chữ”, hay một hai tác phẩm không được cho xuất bản, nhưng làm rất công khai và người ta có quyền khiếu nại về chuyện đó, chứ không như là ở văn học miền Bắc thời đó nói rằng không có kiểm duyệt.

Nhưng thực ra hệ thống kiểm duyệt vô cùng chặt chẽ với sự kiểm duyệt bằng cả một hệ thống con người, từ Ban Tuyên giáo cho đến công an, cho đến Bộ Văn hóa, và quan trọng hơn, điều này làm cho các nhà văn lâm vào một tình trạng gọi là phải tự kiểm duyệt, nếu không sẽ không an toàn trong đời sống, nên khi từ ngòi bút họ viết ra, họ đã phải tự kiểm duyệt rồi, không thể làm điều gì mà trái với tư tưởng, đường lối của đảng Cộng sản cả. Cho nên khó có một nền văn học tự do và nhân bản đúng nghĩa.” 

Nói tiếp về các đặc điểm mà cũng có thể được coi là những giá trị, là di sản nổi bật của nền văn học Việt Nam Cộng Hòa trong hai thập niên từ 1954-1975, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng, nhận định:

“Đặc điểm thứ tư của nền văn học thời kỳ này là có một sự ảnh hưởng rất mạnh mẽ về triết học, về triết lý, đó là điều mà ngay ở thời kỳ văn học gọi là tiền chiến cũng chưa rõ… Những ảnh hưởng của triết học phương Tây quá rõ, như là hiện sinh, rồi đến hiện tượng luận, cho đến phân tâm học, có ảnh hưởng đến các nhà văn rất là lớn, hay chưa hẳn là triết học, nhưng những tư tưởng triết lý sống của phương Tây lúc ấy cũng du nhập rất mạnh, như tư tưởng nữ quyền, giải phóng phụ nữ… 

Điều đó có tác động rất rõ đối với văn học Việt Nam Cộng Hòa, với sự hình thành mạnh mẽ một lớp nhà văn nữ rất là nổi, từ Túy Hồng, rồi Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ v.v… Đấy là đặc điểm khác với văn học miền Bắc và đương nhiên nó khác cả với thời kỳ tiền chiến nữa, văn học thời tiền chiến chưa có những hiện tượng như thế.”

Thấm đẫm tính triết học và chất lượng rất cao

Theo nhà thơ Hoàng Hưng, yếu tố tư tưởng và triết học phương Đông, trong đó có Phật giáo cũng có tác động và in dấu ấn đối với văn học Việt Nam Cộng Hòa trong hai thập niên lịch sử trước 30/4/1975, ông nói tiếp:

“Thế nhưng cũng không phải chỉ có triết học phương Tây, mà một điều thứ hai không kém phần là triết lý Phật giáo, cũng trong giai đoạn này, những sách về Phật giáo ra mắt rất nhiều, có thể nói là một cuộc Phục hưng về Phật giáo trong lịch sử của Việt Nam. Tức là từ các sách của những nhà xuất bản như Lá Bối của thày Thích Nhất Hạnh, rồi rất nhiều những sách kinh, sách Phật giáo, tôn giáo được dịch thuật, như là Krishnamurti, Osho, rồi Suzuki.

Cho nên những điều này tác động rất lớn đến đời sống tinh thần của người miền Nam và đương nhiên tác động đến các nhà văn mà chúng ta đã biết, có rất nhiều tác giả nổi tiếng ở miền Nam lúc bấy giờ được ưa chuộng, mà đã chuyên chở được tinh thần và ý thức Phật giáo như là Thích Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm Thiên Thư, và ngay cả lời bài hát của Trịnh Công Sơn cũng là văn học, cũng là thơ mà thấm đẫm triết lý Phật giáo.”

Về đặc điểm thứ năm của nền văn học Việt Nam Cộng Hòa, ông Hoàng Hưng nói tiếp:

“Đó là nó tiếp tục tiếp thu được những trào lưu nghệ thuật phương Tây đương thời, điều này tôi cho là sự tiếp tục của nền văn học giai đoạn thời kỳ tiền chiến… Đến thời kỳ sau năm 1954, các tác giả mà phần lớn là những người có Tây học, đọc được sách ngoại ngữ, và dịch thuật rất nhiều, đã có sự tiếp nhận được rất nhiều những phương pháp nghệ thuật, các trào lưu nghệ thuật mới lúc đó của phương Tây như là siêu thực, hiện sinh, phi lí, hay là dòng ý thức, điều này rất rõ trong nhiều tác phẩm. 

Đến đây, tôi muốn nói đến một bộ phận nữa đó là sách dịch, bộ phận rất lớn, có thể nói đây là một thời kỳ dịch thuật rất quý báu đối với đời sống tinh thần của người ở miền Nam nói chung, chứ không chỉ nói riêng đối với văn học, tức là rất nhiều sách về triết học, xã hội học, khoa học xã hội, nhân văn, tiểu thuyết của phương Tây được dịch ra ồ ạt… Số có chất lượng rất là đông đảo và có thể nói đây là một kho báu đối với chúng tôi, là những người gọi là nhà văn, nhà báo, người viết lách ở miền Bắc mà sau 30/4/1975 vào Nam, mà ra các ‘chợ sách vỉa hè’ thì có thể ôm không biết bao nhiêu sách dịch như vậy về, còn ở miền Bắc, do hoàn cảnh chiến tranh, cũng chỉ dịch được một số tác phẩm, không nhiều lắm, mà chủ yếu từ tiếng Nga là nhiều”.

vanchuong02.jpg
“Lều Chõng” của Ngô Tất Tố, in lần thứ ba do nhà Mai Lĩnh xuất bản, năm 1958, do nhà sách Tân Sinh đứng ra phát hành; và Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (Dictionnaire Annamite), Tome I (từ A-L) in tại nhà in Văn Hữu, Chi Lăng, Gia Định, 1974. Ảnh: Quốc Phương/RFA

Đối xử của chính quyền Việt Nam gần đây với dòng văn học này

Bình luận về đối xử của chính quyền của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam đối với dòng văn học Việt Nam Cộng Hòa, trong dịp này nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng đề cập một trong số nhiều tài liệu mà theo ông thể hiện dường như bước đầu đã có sự dịch chuyển ít nhiều trong quan điểm, chính sách và cách thức đối xử của nhà nước và chính quyền cộng sản Việt Nam, ông cho hay:

“Nhận thức về nền văn học miền Nam Việt Nam trước đây vẫn còn nhiều mơ hồ, thế nhưng dần dần qua mấy chục năm nay, đã có những chuyển biến khá tốt, theo tôi, tuy vẫn còn nhiều e dè và lẻ tẻ. Gần đây tôi tình cờ đọc được một bài báo cho thông tin rất thú vị ở trên báo Nhân dân cuối tuần, số ngày 13/9/2016 viết về đề tài này, mà tôi xin trích dẫn lại nguyên văn có đoạn viết như sau:

‘Nói chung trong khoảng 10 năm sau ngày giải phóng, tinh thần cơ bản của các nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật là ngăn chặn, chống, phê phán, đấu tranh, quét sạch văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng; xóa bỏ những xuất bản phẩm phản động, khiêu dâm; trừng trị nghiêm khắc những ai cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước…’

Kinh hoàng đến như thế, nhưng mà ở đoạn kết của bài báo này, thì lại viết rằng: ‘…quan điểm chính thức được khẳng định hiện nay là, ủng hộ việc đẩy mạnh nghiên cứu, chọn lọc phổ biến các giá trị đích thực của văn học nghệ thuật miền nam trước 1975 trên tinh thần hòa hợp dân tộc để hàn gắn vết thương, đoàn kết mọi người cùng nhìn về một phía, thực hiện hòa hợp dân tộc bằng con đường văn hóa văn nghệ. Dĩ nhiên trên thực tế, câu hỏi về cách ứng xử như thế nào đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật của các tác giả miền nam trước 1975 là vấn đề khó có được câu trả lời cụ thể và thấu đáo.’”

Đưa ra bình luận thêm về quan điểm này của chính quyền Việt Nam thông qua bài báo nói trên của báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận, truyền thông của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhà thơ Hoàng Hưng nói:

“Tác giả bài báo này ký tên là Hạnh Nguyễn mà không biết là ai, nhưng điểm thú vị là ở câu cuối này, tức là về nguyên tắc họ nói như vậy, tất nhiên phải có chỉ đạo ở một cấp cao hơn là báo Nhân Dân, báo này dẫu sao cũng là tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản, nhưng nói như vậy, còn khi xử lý trên những trường hợp cụ thể, tác giả, tác phẩm cụ thể, thì vẫn còn nhiều rắc rối.

Tôi đơn cử dẫn chứng vào năm 2007, công ty sách phương Nam ra được bốn tập sách của Dương Nghiễm Mậu, là nhà văn được coi là tiêu biểu về phương pháp sáng tác mới mẻ, lập tức bị nhà văn Vũ Hạnh, cũng là nhà văn ở miền Nam Việt Nam ngày xưa, với lập trường cộng sản, phê phán rất kịch liệt, sau đó thì im thít, không ai dám in tiếp nữa. Hay sau đó cũng ra được tác phẩm của nhà văn Lê Xuyên, rồi cũng bị phê phán ác liệt, dẫn đến cũng lại im thít, không ái dám xuất bản tiếp nữa.

Hay ngay trường hợp của tôi mới đây cũng khá thú vị để hiểu vấn đề, tức là gần đây vì các websites (trang mạng) bị tường lửa hết, ngay cả Văn Việt là website của chúng tôi cũng bị tường lửa, tất cả các website nói chung mà không phải của nhà nước, đều bị tường lửa nên rất khó vào. Cho nên tôi có một ý tưởng là đưa lại hồ sơ văn học miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa lên lại trên Facebook, đưa lại trên một chuyên trang về văn học nghệ thuật mà là Facebook cá nhân.

Lập tức trang bị đánh phá ngay, bị chặn, không làm sao có thể đưa lên được gì cả, rồi bị cảnh cáo, bị khóa danh khoản tùm lum, có những cảnh cáo, cảnh báo rất buồn cười, bởi vì khi chúng tôi đăng đầu tiên mấy tác phẩm của Phạm Thiên Thư, tức là mấy tác phẩm đã được xuất bản công khai ở Việt Nam bây giờ, không phải là chính trị hay gì, mà lập tức tôi đã bị cảnh cáo rằng đã ‘vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng’.

Tức là họ có một lực lượng nào đó, mà họ vẫn không muốn cho sự xuất hiện của văn học miền Nam này một cách đàng hoàng; có thể lẻ tẻ một hai cuốn thì được, còn khi đưa ra giới thiệu cả một kho về văn học miền Nam là họ không cho!”

Tuy có những sự việc trên, trong dịp 48 năm đánh dấu biến cố 30/4/1975 với Việt Nam, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng vẫn đặt kỳ vọng ở tương lai:

“Đến một lúc nào đấy mà tôi chưa biết, điều này sẽ do những nhà chính trị cân nhắc, nhưng không thể không đặt nền văn học này thành một mảng của văn học Việt Nam nói chung, mà không có phân biệt bắc, nam, không phân biệt chính kiến, vì đó đúng là một thành tựu của văn học Việt Nam, một thành tựu rất huy hoàng, cho nên nó sẽ được thành một mục nghiên cứu đàng hoàng, khách quan và thấu đáo.

Tôi mong rằng một ngày nào đó gần đây sẽ như vậy và trong giới nghiên cứu có rất nhiều người sẵn sàng làm việc đó, nhưng họ cũng phải được tạo thuận lợi là sự bật đèn xanh của hệ thống chính trị như một điều tất nhiên, còn nếu không họ sẽ không được cho phép xuất bản, giảng dạy và sẽ rất hạn chế, không có ai bỏ công đi làm việc mà không rõ rằng có được công bố hay không.

Nhưng tôi nghĩ rằng nếu mà người cầm quyền sáng suốt và thực sự như là câu của báo Nhân Dân nêu lên rằng thực sự muốn một sự hòa giải, hòa hợp, để toàn dân Việt Nam có thể chung sống với nhau, đoàn kết với nhau vì những mục tiêu lớn, mà trước mắt của chúng ta là những vấn đề phải đối phó như chủ quyền của đất nước, vấn đề phát triển về kinh tế, văn hóa như thế nào;

Nhất là những nhà lãnh đạo của Đảng mấy năm gần đây phát biểu ‘rất đề cao văn hóa’, coi văn hóa như ‘động lực phát triển’, vấn đề là phải nhìn văn hóa một cách toàn diện, không định kiến, không bị ý thức hệ dẫn dắt, rằng văn học miền Nam chính là thành tựu của văn hóa dân tộc, phải xác định, khẳng định như thế để mà nghiên cứu các giá trị của nó, để mà tiếp tục phát huy, phát triển nền văn hóa, văn học nghệ thuật của Việt Nam,” nhà thơ, dịch giả, nhà báo Hoàng Hưng, thành viên sáng lập Ban vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam, chia sẻ với RFA Tiếng Việt trên quan điểm riêng hôm 26/4/2023 từ Sài Gòn. 

Nguồn: RFA

Tiểu sử Nhà thơ Hoàng Hưng

Nhà thơ Hoàng Hưng tên thật là Hoàng Thụy Hưng, sinh năm 1942 tại thị xã Hưng Yên.

Ông tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1965. Từ năm 1973 đến năm 1982 ông là phóng viên, biên tập viên báo Người Giáo viên Nhân dân thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo. Bị bắt giam và tập trung cải tạo vì cầm tập bản thảo thơ “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm và những bài phác thảo thơ trong nhật ký của mình (8/1982-10/1985). Từ năm 1987 ông tiếp tục làm ở nhiều báo khác nhau, cuối cùng là báo Lao động trong 13 năm từ 1990 đến khi nghỉ hưu vào năm 2003. Sau khi nghỉ hưu ông thường được mời nói chuyện thơ ở nhiều nước như Pháp, Đức, Hoa Kỳ. Tham gia BBT các báo mạng talawas.org (Đức), Boxitvietnam.net (Hà Nội), vanviet.info (Sài Gòn).

Năm 2014 ông cùng các nhà văn, nhà thơ Nguyên Ngọc, Lê Phú Khải, Hoàng Dũng, Ý Nhi… lập Ban Vận động Văn đoàn Độc lập VN và trang mạng vanviet.info. Năm 2015 ông bắt đầu tổ chức Giải Văn Việt thường niên và giữ trách nhiệm Thường trực Hội đồng Giải.

Các tác phẩm Thơ đã công bố: Đất nắng (in chung với Trang Nghị) 1970, Ngựa biển 1988, Người đi tìm mặt 1994, Hành trình 2005, Ác mộng 2006 (online, talawas.org), 36 bài thơ 2008, Thơ và các bài viết về Thơ HH 2012 (HHEBOOK), Các bài viết về Thơ 2012 (HHEBOOK), Poetry & Memoirs 2012 (International Poetry Library SF), Ác mộng (Nightmares) thơ song ngữ 2018 (Văn Học Press, California).

Thơ dịch: 100 bài thơ tình thế giới (chủ biên và cùng dịch) 1988, Thơ Federico Garcia Lorca 1988, Thơ Pasternak (cùng dịch với Nguyễn Đức Dương) 1988, Thơ Apollinaire 1997, Các nhà thơ Pháp cuối TK XX, 2002; 15 nhà thơ Mỹ TK XX (chủ xướng, tổ chức bản thảo và cùng dịch) 2004, Thơ André Velter 2006; Thơ Thuỵ Điển (cùng dịch) 2010, Trường ca Aniara 2012, Thơ Allen Ginsberg (chủ biên và cùng dịch) 2012 (HHEBOOK), Bài hát chính tôi – Walt Whitman 2015, Trời đêm những vết thương xuyên thấu – Ocean Vuong, 2018.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *