Đôi dòng giới thiệu:
Nhân sự kiện sư Thích Minh Tuệ, vị chân tu khổ hạnh, bộ hành khất thực theo phương pháp tu tập “Hạnh Đầu Đà” đã làm dấy lên tình trạng suy đồi trầm trọng của Phật Giáo quốc doanh trong nước , xin được giới thiệu đến quý độc giả bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Huấn (Hamburg)), là một tín đồ Công Giáo, viết về một vị Hòa Thượng, hiện là viên chủ Chùa Viên Giác tại Đức quốc, với tất cả lòng tôn kính. Xin cám ơn tác giả.
***
Rất nhiều người quan niệm rằng, trong cuộc đời này mỗi câu chuyện xảy ra, mỗi một người ta gặp đều đến từ hai chữ “Nhân Duyên“ và đó chính là một triết lý nhân sinh trong các mối quan hệ của con người và mọi sự việc. “Nhân“ và “Duyên“ cũng không phải tự nhiên có, mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp-tan của các “Nhân–Duyên“ có trước để tạo ra “Nhân–Duyên“ mới, Phật Giáo gọi đó là tính “Trùng Trùng Duyên Khởi”. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm hành Đạo cùng với sinh nhật thứ 75 của Hòa Thượng Thích Như Điển, tôi muốn viết về mối “Nhân Duyên hội ngộ“ đặc biệt đã đưa tôi đến với Thầy, một vị tu sĩ Phật Giáo thuần thành và giản dị, người tôi rất cảm phục và kính mến.
Thời gian mới định cư tại Đức vào đầu năm 1980, tôi đã nghe về một niệm Phật Đường Viên Giác với tạp chí Viên Giác do Đại Đức Thích Như Điển sáng lập và chủ trì tại Hannover, nước Đức. Nghe thì nghe nhưng chỉ là để đó thôi mà không một chút quan tâm vì nghĩ rằng, người Việt ở đâu mà chẳng có Cha có Cụ, có Sư có Thày, có Nhà Thờ, có Chùa Chiền. Hơn nữa, tôi lại là một tín đồ Công Giáo, được giáo huấn dưỡng nuôi trong khuôn khổ và đức tin của Giáo Hội Công Giáo, thậm chí còn đi tu với ước vọng mình sẽ trở thành một Linh Mục. Tôi đã có những tháng năm dài trong tu viện Công Giáo và Chúa đã không chọn tôi vì tôi không hội đủ điều kiện. Ước mong không thành đã đưa tôi qua một bước ngoặc quan trọng trong đời. Không được làm “Cha nhà thờ“ tôi đã trở thành…“Bố bầy trẻ“ và bây giờ còn lên chức “Ông của đám cháu nội ngoại“. Bên Công Giáo gọi tôi là “người tu xuất“, các tín đồ Phật Giáo gọi tôi là “kẻ hoàn tục“. Cho dù “tu xuất“ hay “hoàn tục“ gì gì đó, thì tôi cũng phải cất bước “lững thững“ đi vào cõi đời trần tục này.
Ngày thứ bảy, 07 tháng 8 năm 1982, các Phật Tử tại Hamburg rầm rộ kháo nhau đi nghe Đại Đức Thích Như Điển lần đầu tiên đến đây thuyết pháp. Bạn bè rủ tôi đi nghe, tôi cũng đến nghe chỉ vì…tò mò. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đi nghe một ông Thày Phật Giáo thuyết pháp và tôi đã nhìn thấy Thày Thích Như Điển bằng xương bằng thịt. Thày ngồi trên bàn phía trước, to lớn phương phi, và tôi – một tín hữu Công Giáo – ngồi xa xa mãi tận hàng ghế sau cùng. Tôi nghe Thày giảng với những danh từ Phật Giáo đối với tôi rất xa lạ, nào là “mùa An Cư Kiết Hạ“ là mùa gì ? Cái gì là “Đàn Na Tín Thí“, là “Cúng Dường trai tăng“ ? Thế nào là “thuận thế vô thường, có có không không“ ? Đâu là “thế giới Tịnh Độ“ ? Rồi bất giác trong tôi chợt hiện ra những câu hỏi tự thật ngu ngơ, tại sao các Thày Phật Giáo đều mang chung cùng một họ “Thích“ ? Tại sao các tu sĩ Phật Giáo phải…cạo trọc đầu, nữ cũng như nam, trong khi nhìn các hình tượng thì Đức Phật vẫn có nhiều tóc?
Thế nhưng, qua lời giảng của Thầy tôi mới hiểu được rằng, Phật Giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, mà là “Nhân-Duyên-Quả, khi hiểu theo ý nghĩa : “Nhân“ là nguyên nhân chính, “Duyên“ là những tác nhân phụ và “Quả“ là kết quả của “Nhân và Duyên“ khi đã hội đủ hay đã chín mùi.
Vì thế, Phật Giáo không đề cao hay tôn thờ một thực thể nào, không có bất kỳ quyền lực cao siêu nào có thể quyết định được vận mệnh của con người ngoại trừ chính bản thân mình và chủ trương tập trung vào những vấn đề thực tế nhất của con người, không trừu tượng, không siêu hình, không giáo điều hay khiên cưỡng, cũng không ép buộc ai, mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng, chỉ dạy cách sống khiêm nhường, suy nghĩ linh hoạt và khuyên răn con người phải sống tốt, sống đẹp, phải cống hiến cho xã hội nhiều hơn. Chính vì thế, Phật Giáo là một nền giáo dục uyên thâm và bổ ích nhất, mà Đức Phật dạy bảo trực tiếp đến tất cả chúng sanh. Đến lúc này tôi mới hiểu thấu đáo lời nói của Đức Dalai Lama thứ mười bốn rằng: “Tư tưởng Phật giáo dựa trên nghiên cứu nhiều hơn đức tin, nên những phát hiện khoa học rất hữu ích cho tư tưởng đạo Phật“.
Phải chăng đó cũng là “Nhân-Duyên“ đưa đẩy tôi đến gặp Thầy, để được học hỏi thêm phần nào đó về triết lý của Đạo Phật!
Cũng trong thời gian này tôi được biết Thầy Thích Như Điển trước khi định cư tại Đức năm 1977, cũng đã từng du học bên Nhật từ năm 1972. Tôi có người em (MVH) là em ruột của ông anh rể cũng đi du học bên Nhật vào năm này. Hồi đó tôi còn là một Trung Úy Không Quân đồn trú tại phi trường Đà Nẵng về phép Sài Gòn đúng vào dịp gia đình ông anh rể tiễn đưa chú em ra phi trường Tân Sơn Nhất đi Nhật du học. Vì muốn “lấy le“ với chú em, tôi dành lái xe đưa chú ra phi trường và còn hứa đưa ra đến tận cửa máy bay, khỏi phải chen chúc chờ đợi xếp hàng. Sau thời gian làm thủ tục, tôi bỗng thấy một nhóm người tụ tập trong phòng chờ đợi, trong đó có mấy Thầy mặc áo choàng nâu đi tiễn đưa một Thầy cao lớn phương phi nổi trội hơn tất cả cũng qua Nhật du học, đó là ngày 27 tháng 2 năm 1972, mà mãi sau này khi qua Úc gặp lại chú em, tôi mới biết vị Tu Sĩ đi du học ngày hôm đó chính là Hòa Thượng Thích Như Điển ngày nay. Có một sự trùng hợp rất bất ngờ và khó quên, ngày này cũng là ngày tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ Richard Nixon lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đi công du, chính thức bắt tay bang giao với Trung Hoa qua lời mời của Mao Trạch Đông. (từ 21 đến 28 tháng 2 năm 1972). Chắc Thầy vẫn còn nhớ rõ.
Cứ coi như đó như một khởi đầu của một mối “Nhân Duyên hội ngộ“ giữa Thầy và tôi, cuộc hội ngộ bất ngờ và thật vô tình, không ai biết ai, bốn mắt nhìn nhau xa lạ, để rồi đường tu hành của Thầy, Thầy theo đuổi; đường đời chiến binh phiêu bạt của tôi, tôi đi. Trải qua bao đổi thay với nhiều thăng trầm trong cuộc sống Đạo của Thầy và cuộc sống đời của tôi và rồi tôi được tái ngộ Thày trên mảnh đất tạm dung này. Công Giáo gọi đó là “không ngoài sự an bài của Thiên Chúa“ như trong sách “Tin Mừng“ có câu: “Ngay đến từng sợi tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm cả rồi“. Mà đúng là “Nhân Duyên“ thật, vì trong 7 năm đồn trú tại phi trường Đà Nẵng, hầu như lần nào có dịp bay ra Huế tôi thường ghé qua Chùa Thiên Mụ cao ngất ngưởng bên dòng sông Hương êm đềm để “ngắm cảnh…nhìn người“. Tôi cũng đã nhiều lần ghé qua phố cổ Hội An tọa lạc vùng hạ lưu sông Thu Bồn, vào quán ông Năm Cơ ăn tô Cao Lầu không có nước lèo, hay ngồi chồm hổm ăn tô mì Quảng trộn hoa chuối thái thành sợi trên hè phố, rồi nhâm nhi ly Cà Phê Số Một, và rất tình cờ ghé qua ngôi Chùa rất cổ Viên Giác, tiền thân là Cẩm Lý Tự, nằm ở ngoại ô Hội An được xây từ những năm 1800, toạ lạc trên đường Huỳnh Thúc Kháng cũ, nay là đường Hùng Vương, huyện Cẩm Phô, phủ Điện Bàn, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ngôi Chùa cổ kính êm đềm cạnh giòng sông Thu Bồn, ép mình dưới bóng mát của hai cây đa cổ thụ, nơi được coi là “cái nôi“ của các cuộc đấu tranh đòi Tự Do Tôn Giáo và độc lập đất nước, và đây cũng là nơi “chú Điển“ vạm vỡ ngày xưa đã ngày ngày gập lưng quét lá đa và miệt mài ngồi xay đậu hũ. Tôi cho rằng đó là thời gian tôi chập chững những bước chân đầu tiên trên con đường dẫn đến “Nhân Duyên hội ngộ“ cùng Thầy. Tôi vẫn thắc mắc mãi tại sao rất nhiều Chùa Miếu ở nước ta ngày xưa đều có những cây đa được trồng quanh, hay là các Phật Tử cứ phải tìm đến nơi nào có những cây đa thì mới xây Chùa, dựng Miếu?

Tôi làm việc cộng đồng thiện nguyện nên đi đây đi đó cũng nhiều, nhất là thời gian tình nguyện trên tàu Cap Anamur cứu người vượt biển. Trong một chương trình kêu gọi đóng góp cho con tàu nhân đạo này vào đầu thập niên 80, qua sự giới thiệu và hướng dẫn của anh Nguyễn Hòa, Phù Vân (lúc đó anh còn trong Ban Chấp Hành chi hội Phât Tử TNCS Hamburg), tôi đánh bạo đến Chùa Viên Giác tại Hannover, Đức quốc và đây là “Nhân Duyên hội ngộ“ đầu tiên, tôi được đối diện trực tiếp với Thầy Thích Như Điển lúc đó còn là vị chủ trì Chùa. Thầy sanh tại quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam (cách phi trường Đà Nẵng khoảng 40 cây số) nên dĩ nhiên Thày nói giọng Quảng Nam, nhưng theo tôi, giọng Quảng Nam của Thầy hình như đã bị…mất gốc ! Những năm chinh chiến dài theo năm tỉnh miền Trung đã cho tôi nhận xét đó. Giọng Quảng Nam rất đặc trưng, khác hẳn giọng Thừa Thiên Huế – dù chỉ cách một con đèo Hải Vân, nhưng lại hao hao giọng Quảng Ngãi, cái giọng “Eng không eng tét đèng đi ngủ, đừng kèng nhèng chó kéng nheng reng“ (Ăn không ăn tắt đèn đi ngủ, đừng cằn nhằn chó cắn nhăn răng). Hay nói câu “cái lốp xe đạp“ nghe sao lại thành “cái láp xe độp“. Thế nhưng, ít ai biết được rằng, tiếng Quảng Nam đã từng được coi là ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ quốc gia, như vua Tự Đức đã khẳng định rằng: “Bình văn, xướng văn tất phải dùng tiếng Quảng Nam mới được xem là trung thanh”. Người miền Trung, nếu đã vào Nam lập nghiệp hay học hành dù chưa đến một năm, thế nào cũng bị giọng miền Nam…pha tiếng, không ít thì nhiều. Ngay chính tôi, thằng Bắc kỳ đặc…“ rau muống mắm tôm“, di cư vào Nam từ năm 1954 đến nay cũng bị cái giọng Nam kỳ xâm lấn, ăn nói cứ lai lai như…“ba rọi“. Tôi nghĩ giọng nói …“lai lai“ của Thầy hiện nay là hậu quả của hơn hai năm trung học tại Sài Gòn, hơn năm năm du học bên Nhật và đến nay đã 60 năm liên tục hành Đạo trên xứ Đức này…. Thầy hỏi tôi ngay về ông tiến sĩ Rupert Neudeck, người sáng lập ủy ban Cap Anamur. Thầy hỏi thăm về chương trình đóng góp cứu người vượt biển của con tàu nhân đạo Cap Anamur. Thầy nói việc đóng góp hỗ trợ là nhiệm vụ và bổn phận của người tỵ nạn Việt Nam và sẵn sàng ủng hộ cũng như kêu gọi các Phật tử. Tôi chưa kịp cám ơn tấm lòng của Thầy thì Thầy lại ra lời cám ơn tôi trước. Tôi đã rất ngỡ ngàng và ngượng ngùng vì lời cám ơn này – mình đi năn nỉ kêu gọi…xin tiền người ta, mà người ta lại quay lại …cám ơn mình ? Thầy nhỏ nhẹ bảo tôi :
– Âu cũng là “Nhân Duyên“ đó anh Huấn à ! Phật đã đưa đường dẫn lối anh đến Chùa gặp tôi, nhờ đó tôi và các Phật tử mới có dịp đền ơn người cứu mạng và thể hiện lòng từ bi của nhà Phật, vì thế tôi phải cám ơn anh là đúng rồi chứ!
Trên đường về, tôi suy nghĩ mãi về câu nói ấy và từ đó có những thiện cảm dấy lên trong tôi và ngày càng cảm thấy mình gần gũi với Thầy hơn qua những liên lạc sau này. Ít lâu sau, Rồi Thầy có nhã ý mời tiến sĩ Rupert Neudeck (người sáng lập Ủy Ban Cap Anamur) ghé thăm ngôi Chùa Viên Giác và nói về chương trình cứu vớt thuyền nhân Việt Nam… Ông tiến sĩ hân hoan nhận lời ngay, nhưng tiếc thay vào giờ phút chót ông lại không đến được vì có công việc bất khả kháng. Tôi đến một mình, trình bày với Thầy. Thầy khuyên tôi phải thay mặt ông nói chuyện với các Phật Tử vì họ đang tụ tập đông đảo trong hội trường. Tôi nghĩ mình cũng có phần trách nhiệm nên miễn cưỡng nhận lời. Thầy cầm micro dành nhiệm vụ của người điều khiển chương trình để tự mình giới thiệu tôi với cử tọa. Sau hơn 20 phút, khi vừa quay lưng bước xuống, tôi giật mình khi thấy Thầy vẫn còn đứng ngay sau lưng tôi trong suốt thời gian dài tôi nói chuyện. Tại sao Thầy làm như thế ? Tôi có xứng đáng được như vậy hay không ? Tôi vừa bước xuống với Thầy vừa tỏ ý…“trách móc“. Thầy ôm vai tôi mỉm cười :
-Anh Huấn à! Anh là đại diện của Ts Neudeck thì tôi phải tiếp đón anh như chính ông Ts Neudeck vậy. Đó là việc thông thường thôi, sao anh lại trách tôi ?
Tôi đỏ mặt tía tai như người từ trên Trời vừa rớt xuống đất và ngày càng cảm mến kính phục sự tế nhị, khéo léo nhưng rất khiêm nhường của Thày.
Hòa Thượng Thích Như Điển có một “ông bạn già“ là Sư Huynh (Thầy) Công Giáo tên Hà Đậu Đồng. Hai vị thân thiết như anh em, mặc dù Thầy Đồng lớn hơn Thầy Thích Như Điển đúng một con giáp. Hai vị tu sĩ hai Đạo khác nhau và cùng du học một thời tại Nhật Bản. Âu cũng là “Nhân Duyên hội ngộ“ nên lại gặp nhau trên xứ Đức này, để một Thầy tận tụy “hoằng pháp“ giáo Pháp của Phật, mang truyền thống “Thiền Lâm Tế“ từ Việt Nam sang Đức; một Thầy cặm cụi chăm lo “truyền bá Đức Tin Công Giáo“ và phụng sự xã hội.
Những dịp lễ lạc quan trọng của Chùa, Thầy Điển đều mời Thầy Đồng đến tham dự. “Đôi song ca“ này chính là một kết tinh kiểu mẫu, thật tuyệt diệu, sáng ngời và hiếm có của sự “hòa đồng Tôn Giáo“, vượt ra khỏi mọi biên giới khép kín, không đắn đo câu nệ, luôn chia sẽ ngọt bùi và nhất là vẫn tôn kính lẫn nhau. Thầy Đồng thường nắn nót làm thơ tặng Thầy Điển, Thầy Điển biết mình làm thơ…không hay, nên mượn lời ca tiếng nhạc tặng Thầy Đồng. 15 năm trước, vào ngày mừng sinh nhật 60 năm, Thày Thích Như Điển dĩ nhiên mời Thày Hà Đậu Đồng, và tôi cũng hân hạnh được tham dự. Khi người điều khiển chương trình mời Thầy Đồng lên sân khấu phát biểu đôi lời, Thầy Hà Đậu Đồng chưa kịp đứng lên thì tôi thấy Thầy Thích Như Điển đã vội vàng đứng lên trước, nghiêng mình nhẹ cúi đầu đưa bàn tay trịnh trọng mời và hướng dẫn Thầy Hà Đậu Đồng lên tận sân khấu, sau đó mới trở về lại chỗ ngồi của mình. Một cử chỉ tôi chưa từng thấy trong các đại hội Đạo cũng như Đời mà tôi đã tham dự từ trước đến nay. Cử chỉ kính trọng, cung cách xã giao, sự khéo léo tế nhị và khiêm nhường đó đã làm tôi thật cảm kích khâm phục. Tiếc thay,Thầy Hà Đậu Đồng đã vĩnh viễn chia tay người anh em ruột thịt của mình để về với nước Chúa vào năm 2017. Chắc Thầy Thích Như Điển chẳng bao giờ quên “ông bạn già“ thích vẽ tranh, làm thơ ngày nào và vẫn nhớ những tháng ngày trai trẻ bên nhau trên mảnh đất phủ hoa Anh Đào, Nhật Bản.
Sự khiêm nhường và biết ơn của Thầy còn được thấy rõ hơn trong ngày hôm ấy, khi Thầy đứng trên sân khấu trịnh trọng vinh danh và tỏ lòng cung kính cám ơn cô giáo Huỳnh Thị Thúy Lan, là cô giáo môn vạn vật trong những năm 67/68 Thày học chữ trong trường trung học Bồ Đề, Hội An đang ngồi phía dưới. Thầy nói:
-Xin cám ơn công lao giáo dục của cô, nếu không có cô ngày đó, chắc gì tôi đã có được những thành quả như ngày hôm nay.

Một lần Thầy dẫn tôi vào thư phòng của Thầy trong Chùa Viên Giác. Căn phòng nhỏ chật chội vừa đủ kê một bàn làm việc, một bộ trường kỷ, có dăm ba kệ sách cao ngất ngưởng quanh tường, thêm một chiếc giường vừa đủ cho một người nằm, tất cả đều sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng. Nhìn chiếc giường mong manh như không đủ sức chịu đựng sức nặng của Thầy, tôì hỏi:
-Đây là thư phòng của Thầy, vậy Thầy ngủ ở đây luôn sao ?
Thầy chỉ quanh phòng nói:
– Anh thấy đó, giang sơn riêng của tôi vuông vức bằng đó thôi, đất nhà Chùa đâu có lớn, được vậy là…sang lắm rồi. Vừa là phòng làm việc, vừa là phòng ngủ, ấy thế mà tiện lắm anh biết không. Tôi ít ngủ, lại thức rất sớm, chỉ cần một hai bước là đã đến bàn tiếp tục làm việc ngay.
Tôi đùa với Thầy:
-Thầy ở đây chỉ một mình, lại bận rộn. Mai mốt con về hưu Thầy mướn con sai vặt để con kiếm thêm tiền xài, được không?
Thầy biết tôi đùa nên cười bảo:
-Trong Chùa chỉ làm công quả thôi, mướn anh Chùa trả không nổi đâu.
Thầy bảo tôi ngồi, cho uống trà do chính tay Thầy rót, rồi tâm tình :
-Tôi rất khâm phục giáo trình đào tạo một vị Linh Mục bên đạo Công Giáo. Vị Linh Mục nào cũng thông thái giỏi giang cả, thấp nhất cũng bắt buộc phải có trình độ đại học. Có như thế thì việc hành Đạo và truyền Đạo không những đạt được nhiều kết quả mỹ mãn, mà còn có rất nhiều thuận lợi và dễ dàng trong việc giao tiếp với Đời. Từ trước đến nay bên Phật Giáo lại ít quan tâm đến vấn đề này, nên công việc của đa số các Thầy thường bị hạn chế. Đây chính là điểm thiếu sót đáng quan tâm. Các vị Tu sĩ cần có Thánh Thiện là một đằng, nhưng cũng cần phải có học thức đi kèm song song. Tôi đã cảm nghiệm được đều này nên tôi đã và đang ra sức gởi nhiều đệ tử đi khắp nơi du học. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, tôi còn đòi hỏi các đệ tử đi học phải đỗ đạt thật cao thì tôi mới chấp nhận, chứ đỗ đạt bình thường cũng vẫn chưa đủ. Tôi cho anh xem nhé, đây là bằng chứng cho anh thấy.
Thầy lần lượt mở tập hồ sơ cao gần một gang tay chỉ cho tôi xem. Hàng mấy chục mảnh bằng tốt nghiệp được in trên giấy cứng, tiếng Anh có, tiếng Pháp, Đức có… văn bằng thấp nhất là cử nhân, còn lại là tiến sĩ, thạc sĩ….mà hầu hết đều có điểm 1, điểm ưu hay tối ưu và không ít nơi còn ghi hàng chữ “Summa Cum Laude“ được in thật đậm (danh hiệu xuất sắc nhất được sử dụng bởi các tổ chức giáo dục trên toàn thế giới). Tôi đọc một hơi không hết vì bị choáng cả đôi mắt nhưng tai vẫn còn nghe Thầy nói:
-Đấy! Tôi nhất quyết phải làm cho bằng được ý nguyện này. Anh thấy chưa, các đệ tử của tôi phải học hành như thế đấy. Hôm nay tôi khoe với anh đó.
Hơn 50 đệ tử xuất gia của Thầy Thích Như Điển đều thành đạt như thế và tôi cho rằng mãi tận đến hôm nay, hầu như chưa có một vị Sư Tăng người Việt cao cấp nào, kể cả trong và ngoài nước, đã gầy dựng được số lượng hoa trái tốt tươi như thế cho Giáo Hội Phật GIáo Việt Nam Thống Nhât của người Việt Tự Do, một Giáo Hội được thành lập vào tháng 1 năm 1964 tại Việt Nam.
