(Xin phép được phổ biến để tưởng nhớ Cố giáo sư Thạch Trung Giả, vị thầy tài năng khả kính của Trường Võ Tánh Nha Trang – (1956-1963) – PTAN)
Thạch Trung Giả
(Giáo sư, Học giả Thạch Trung Giả tên thật là Trần Văn Long, không rõ ngày năm sinh, dạy Quốc văn và Triết học tại trung học Võ Tánh, Nha Trang. Thạch Trung Giả vóc người đầy đặn, trên trung bình, tóc cắt ngắn, gọn ghẽ, mang kính trắng, mặc đồ trắng, không để lại một cảm giác gì rõ rệt nơi người đối diện, ngoài cảm giác là một người chin chắn, chững chạc, ăn mặc xuề xoà xong thôi. Bài ông viết kỹ, lối viết không để ai có thể biên tập, thêm thắt… ~ theo Viên Linh)
Cái vũ trụ khách quan ở ngoài ta chỉ cô một nhưng cái vũ trụ ta quan niệm bao giờ cũng tùy thời tùy chốn mà thay đổi.
Bởi thế cho nên ta phải nói: có hằng hà vũ trụ bởi có hằng hà quan niệm về vũ trụ.
Mặc dầu muốn hay không muốn, có ý thức hay không có ý thức, chúng ta tất cả đều là triết nhân mà tát cả mọi loài có cảm giác đều là triết nhân cả. Một người đàn bà quê mùa quỳ trước một cây đa đã có một vũ trụ quan mà không biết, người tiền sử sùng bái lửa có một vũ trụ quan mà không biết, con dế, con giun nhìn vũ trụ dưới một hình thức nào đó có một vũ trụ quan mà không biết. Triết nhân chỉ khác chúng sinh là ở chỗ không những cảm giác thực tại mà còn tư tưởng thực tại và biết mình tư tưởng.
Nhưng tất cả đều trông thực tại dưới những hình thức nhất định, đều có những quan niệm về thực tại.
Sống trong một vũ trụ mà chúng ta tạo ra, chúng ta phải tìm một lối sống thích hợp bởi thể cho nên muốn biết nhân sinh quan hãy tìm biết vũ trụ quan, bởi thế cho nên tất cả mọi luân lý đều là những bộ phận trong toàn bộ siêu hình. Ngay đến bây giờ, một nền chính trị, kinh tế như chủ nghĩa Mác cũng suy ra tự một vũ trụ quan duy vật.
Mỗi thời đại, mỗi quần chúng có một vũ trụ quan của nó. Người Ấn Độ sống trong bầu không khí nhất nguyên thần bí, người Do Thái sống trong bầu không khí nhất thần, người Hy Lạp sống trong bầu không khí đa thần, người Cộng Sản sóng trong bầu không khí duy vật.
Vũ trụ quan thoạt tưởng không có tác dụng lớn lao trong đời sống nhưng thực ra sâu mạnh vô cùng.
Nếu vũ trụ quan là tác động của tinh thần con người thì dĩ nhiên phải căn cứ vào văn hóa để tìm hiểu một vũ trụ quan, tìm hiểu một thời đại, một lớp người.
Có người nghĩ: sao không riêng tìm hiểu ở triết học mà ở khắp văn hóa? Nhưng triết học chỉ là kết tinh của một vũ trụ quan chứ không phải bước đầu khi vũ trụ quan đó chưa thành hình rõ rệt. Mà đến khi nó đã thành hình, triết học cũng không gồm tóm được hết sự phong phú linh động. Triết học Ấn Độ bắt nguồn từ thi ca Vệ Đà, những bài tụng ca mà tình cảm là yếu tố lớn nhất, mà tất cả mọi triết học đều bắt nguồn tự thi ca.
Bởi thi sĩ sống bằng tình cảm mà lẫn vào tình cảm là trực giác mà trực giác là những lằn chớp đầu tiên của mọi triết học. Trong khi diễn tả những xúc động, thi sĩ đã diễn tả cả những nhận thức thần diệu những nhận thức mà chính thi sĩ cũng không có ý thức. Bởi thế thi ca bao giờ cũng là một mớ phức tạp gồm những tình cảm phi lý và những trực giác hợp lý và siêu lý. Hội họa và âm nhạc cũng vậy. Nhưng hội họa và âm nhạc khác thi ca là chỉ diễn tả được trong một phạm ví nhỏ hẹp.
Thế giới của chúng ta hiện đương trải qua một thời kỳ thay đổi. Biết bao nhiêu đạo lý bị lật nhào, biết bao nhiêu vũ trụ quan sụp đổ hay ít nhất cũng bị đem ra thử thách. Cuộc chiến tranh vĩ đại ở khắp nơi chỉ là phản ảnh nhạt mờ của cuộc chiến tranh trong lòng người, tiếng nổ kinh hoàng của nguyên tử chỉ là tiếng vang yếu ớt của tiếng nổ trong lòng người. Không có một chỗ nào yên ổn.
Người bi quan bảo đó là chiến tranh tận thế, người lạc quan bảo đó là chiến tranh vị tiến bộ nhưng khang ai có thể chối cãi dược tính cách khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử.
Không phải chỉ có cuộc chiến tranh giữa nước này với nước khác mà còn cuộc chiến tranh vị chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh này đã gồm tóm nhiều quốc gia ở hai bên phòng tuyến và đã chia xẻ một quốc gia ra làm nhiều mảnh.
Nhưng thế cũng chưa đủ. Cuộc chiến tranh của nhân loại đi tìm một lối sống phức tạp lắm mà những cuộc chiến tranh vì chủng tộc và giai cấp chỉ mới là những khía cạnh, những biểu tượng.
Muốn được biết rõ hơn, hãy nhìn vào văn hóa từ thế kỷ XIX đến bây giờ. Cảm tưởng đầu tiên của chúng ta? Phải chăng đó là một cơn mê sảng? Một thế giới sấm sét, một thế giới tranh tối tranh sáng mà những hình thù và những hình thù biến hiện, hóa sinh ra thiên hình vạn trạng.
Một thế giới đương oằn oại, đương rên xiết, đương khát khao, đương hằn học. Nhân loại cần phải được giải thoát, nhân loại phải tìm thấy một lối sồng, nhân loại đương muốn một vũ trụ, nhân loại đương đau khổ, nhân loại đương điên cuồng.
Mỗi thời đại, mỗi quần chúng có một vũ trụ nhân sinh quan. Nhưng thời đại ta đương sống có rất nhiều vũ trụ nhân sinh quan, những vũ trụ nhân sinh quan chưa sinh mà đã diệt nhưng vẫn còn đương thai nghén không ngừng.
Người trung cổ bên Tây Phương có vũ trụ quan của người trung cổ bên Tây Phương, người trung cổ bên Ấn Độ, có vũ trụ quan của người trung cổ bên Ấn Độ, người trung cổ Việt Nam có vũ trụ quan của người trung cổ Việt Nam. Sự nhất trí đã có bên Tây Phương, bên Ấn Độ, ở Việt Nam, ở khắp thế giới mặc dầu nó không phải là một sự nhất trí mà là những sự nhất trí.
Những nghệ sĩ của mỗi thời đại ở trong một cương vực đều có một vũ trụ chung mà chỉ khác ở cách cảm xúc vũ trụ đó.
Nghệ sĩ đời Đường, đời Tống lấy cái hồn của Thiên Nhiên làm đối tượng.
Nhưng bây giờ? Có bao nhiêu đối tượng? Mà có bao nhiêu nghệ sĩ trọn đời thờ một đối tượng?
Khẩu hiệu của nghệ sĩ là tìm tòi. Tìm tòi một lối sống, tìm tòi một kỹ thuật.
Xưa kia, nghệ sĩ sinh ra đã có sẵn một lý tưởng, một vũ trụ mà hẳn chỉ có việc là nhận lấy để phụng sự và sinh tồn. Đến bây giờ hắn sinh ra với hai bàn tay trắng.
Chưa có một thời nào mà người ta lại chứng kiến một cuộc xung khắc quyết liệt của những lý tưởng, những vũ trụ quan như bây giờ. Bên những tác phẩm tả thực đến cực đoan của những nhà văn Emile Zola, Maxime Gorki, Vũ Trọng Phụng, ta thấy những tác phẩm có khuynh hướng thần bi như của Edgar Poe, Baudelaire. Cái vũ trụ của Emile Zola, Maxime Gorki, Vũ Trọng Phụng là cái vũ trụ của quần chúng. Ai cũng trông thấy, cũng nghe thấy, cũng cảm thấy như vậy.
Cái vũ trụ của Edgar Poe, Baudelaire, Mallarmé là cái vũ trụ huyền diệu mà tất cả muôn loài từ người cho đến cỏ cây đều có linh hồn, đều cảm thông như chỉ có một linh hồn. Cái thế giới chúng ta đương gọi là thực đây chưa chắc đã là thực mà chỉ là biểu tượng của thế giới huyền diệu. Ở giữa thời đại cơ khí này, Edgar Poe, Baudelaire, Mallarmé đã đẩy chúng ta lùi lại hàng mấy mươi thế kỷ đắm chìm trong thế giới của một tinh lực thấm nhuần cả vũ trụ.
Cái vũ trụ của Maeterlinck cũng là một vũ trụ thần bí, những nhân vật trong kịch của người chỉ là những bóng khói sương để mặc cho những trận gió phũ phàng của một mãnh lực mà ta không biết rõ là thế nào, từ đâu đến.
Nhưng cái thế giới của Edgar Poe, Baudelaire, Mallarmé, Maeterlinck còn có thể hiểu được phần nào, chứ cái thế giới của Rimbaud thực khó hiểu. Muốn diễn cái khó hiểu đó, Rimbaud đã đi đến chỗ dùng âm thanh cửa ngôn ngữ chứ không dùng nghĩa của ngôn ngữ, và những hình ảnh phối hợp không thường. Nghệ sĩ ghê sợ trốn tránh cái thế giới thường vẫn diễn bởi cú pháp thường với những nghĩa thường.
Chớ nên nghĩ họ lập dị. Họ là những người thành thực nhất đời, thành thực quá nên vượt qua biên cương của ý thức. Linh cảm thấy một chân lý sâu xa, họ cố đuổi theo bắt lấy cho kỳ được, đoạn tuyệt với ngôn ngữ thông thường đã che phủ cái tâm trạng thực của mình. Họ thành công hay không, đó lại là một chuyện nhưng chúng ta hãy nghiêng mình trước những nhà thám hiểm anh dũng đó. Mà chúng ta cũng nên biết thi ca họ là tiếng sấm báo sinh học thuyết Bergson.
Ảnh hưởng của Edgar Poe, Baudelaire, Rimbaud, Mallarmé thực vĩ đại. Cùng với ảnh hưởng của tiểu thuyết tâm lý của Dostoievski, Tolstoi, nó đã và hiện đương bao trùm cả văn học Pháp, văn học Âu Châu và văn học thế giới.
Những thi sĩ tiểu thuyết gia tiêu biểu của thế hệ trước bên Việt Nam như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nhất Linh, Thạch Lam đều chịu ơn của những bực thầy đó. Những bực thầy đó đã gây được ảnh hưởng như vậy là bởi vì họ đã sớm có ý thức về nguyện vọng chung của loài người chứ không phải riêng họ. Những người công kích họ là những người không chịu cúi xuống lòng mình.
Hội họa không phơi bày được như văn chương bề rộng và bề sâu của cuộc thay đổi lớn lao nhưng lại kích thích ta ngay khiến ta nhận thấy ngay rằng có sự thay đổi. Như thế là bởi vì nó đã dùng đến những hình ảnh cụ thể.
Quan niệm về hội họa, đề tài cùng kỹ thuật đều thay đổi. Và mỗi thiên tài xuất hiện là một cuộc khủng bố. Nghệ sĩ đã đi trước quần chúng. Trong vòng một thế kỷ không biết bao nhiêu họa phái đã sinh và đã diệt. Cái vũ trụ duy nhất được diễn ra, được giải thích băng muôn ngàn cách. Tất cả đều là những cuộc phá phách và những cuộc xây dựng kinh hoàng với cái cảm tưởng đau đớn của người xây dựng là chưa đạt được. Còn đâu là cái vững vàng của Giotto, Michel Ange, Greco và những họa sĩ đời Đường, đời Tống. Họ đã tìm thấy lý tưởng và vũ trụ quan của họ.
Có những nghệ sĩ sống bê tha trụy lạc hoặc tự sát vì không tìm thấy một lối thoát. Người ta bảo đó là vì nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật chứa đựng cái gì nếu không phải sự sống? Vậy họ đau khổ vì nghệ thuật tức là vì sự sống vậy.
Phân tích cái hỗn mang của văn hóa hiện đại, ta tìm thấy nét chính:
SỰ BÁ CHỦ CỦA TÌNH CẢM
Chưa có một thời nào mà tình cảm lại được đề cao như bây giờ. Tình cảm là thước đo giá trị của một tác phẩm. Tình cảm đã thành một hệ thống tư tưởng của nghệ sĩ. Nghệ sĩ không thiện, không ác mà phi thiện ác. Nghệ sĩ lắng nghe tiếng nói của lòng mình, cái gì thâm thiết nhất tức là chân lý. Chân lý đó có thể thiện, có thể ác, điều đó không quan hệ – nhưng nó phải là cái gì thâm thiết nhất để phát huy bản ngã của con người.
Mục đích của tiểu thuyết tâm lý là tìm hiểu con người. Cái tính chất luân lý trong những tác phẩm của một Tolstoi cũng vẫn phải rút ra ở tình cảm. Nhân vật của Tolstoi cũng như Dostoievski trước khi đạt cái thiện đã trải qua cái ác và cái thiện tìm thấy cũng chỉ là chung cục tất hữu của cuộc tiến triển của tình cảm. Không phải luân lý tự trên trời rơi xuống mà tự trong lòng mọc lên. Lý tính chỉ là sản phẩm của tình cảm.
Thi ca tượng trưng là sự thực hiện dưới hình thức khác. Người ta đã tạo ra, hay đã tìm thấy, một thế giới ngoài phạm vi của lý tính. Mà cái thế giới đó thiện hay ác? Không ai có thể nói được bởi nó chỉ là huyền diệu. Cõi huyền diệu đó, quỷ hay thần ngự trị? Thi sĩ không cần biết. Chàng chỉ đòi hỏi sự huyền diệu để mê ly ngụp lặn giữa Vô Cùng.
Mà đến thi ca tượng trưng thì tình cảm không còn là tình cảm. Nó là một cái gì phi lý tính và tình cảm. Nó là tinh thần trước lý tính và tình cảm khác mọi thứ tình cảm mà ta thường quan niệm.
Đọc tôn giáo sử, ta thường thấy những chuyện đợi chờ. Trước khi Thích Ca ra đời, dân Ấn Độ đã đợi chờ. Trước khi Giê-Su ra đời, những nhà tiên tri Do Thái đã đêm đêm chờ xuất hiện một vì sao. Chúng ta bây giờ cũng sống trong một tình trạng đợi chờ.
Tại sao mà nghệ sĩ đoạn tuyệt với lý tính để trông vào tình cảm? Ấy là bởi vì lý tính chỉ là sản phẩm của một tín ngưỡng đã thành và hóa thành một công cụ đúc người ở trong tay xã hội. Cái gì hợp với thành kiến là hợp lý, cái gì trái là phi lý. Trước khi Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo thành hợp lý thì đã có thời phí lý bởi thế đã có bao nhiêu người tử vì đạo.
Nghe theo tình cảm có nghĩa là chống lại những tín ngưỡng hiện hành. Nhưng nghe theo tình cảm tức là lao mình vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm.
Tình cảm có thể đưa ta đến một đạo lý cao siêu vì thâm thiết nhất nhưng cũng có thể đưa ta xuống vực sâu của thú dục đê hèn. Biết bao nhiêu Thượng Đế đa4 từ Đại Dương của tình cảm mọc lên nhưng cũng biết bao nhiêu ác quỷ mọc lên tự đó. Bởi thế cho nên trong văn hóa hiện đại hay có khi trong một con người có đủ hai mãnh lực. Với André Gide thì phi lý tính là tất cả và đọc tác phẩm của ông người ta đã có nhiều quan niệm khác nhau: người thì thấy một luân lý, kẻ thấy phi luân lý, sự thực ông chỉ là một kẻ tìm tòi qua tất cả mọi biên thùy.
Sang thời Hậu Chiến thì tính cách phi lý tính đã trở thành một hệ thống tư tưởng bao trùm khắp thế giới với chủ nghĩa Hiện Sinh (1). Nói hệ thống và chủ nghĩa với Hiện Sinh chỉ là mượn danh từ để gợi các quyết liệt và rộng lớn của một trào lưu vì thực chất của Hiện Sinh là vượt ra ngoài mọi hệ thống, mọi chủ nghĩa, nó là một thái độ, một ngã ba đường, đến đó người ta có thể đi về mọi nẻo. Có một thứ hiện sinh hữu đạo, có một thứ hiện sinh vô đạo, và mỗi loại lại chia ra làm nhiều tiểu loại như: khuynh Cơ Đốc, khuynh Ấn Giáo, khuynh Phật Giáo, hay khuynh Cộng Sản, khuynh Dân chủ!
Ở lãnh vực siêu hình, nó chủ trương cái hiện sinh trước cái bản thể, một vũ trụ quan động mà đối tượng không phải là hòn đá bất di bất dịch để nhận thức chụp lại, mà nó sáng hóa, biến diện với chủ thể. Ở lãnh vực nhân sinh, nó chủ trương tự tạo luân lý, cá nhân tự do, tự do theo mình, tự do bắt mình theo một cái gì. Tôn giáo được nhìn dưới ánh sáng mới: Thượng Đế thành một phương tiện để kích phát sự sống của cá nhân lên đến tột độ.
Tìm tòi, thắc mắc, lo lắng, hy vọng, chán chường là tất cả Hiện Sinh – Thái Độ.
Có những người đi bằng đường lối khác và đến một cứu cánh khác nhưng cùng một chủ trương là thế giới này không thể sống được như nhà văn Lỗ Mã Ni tác giả những cuốn Giờ thứ 25, Dịp may thứ hai (La seconde chance) – Đối với ông, Quốc Xã, Cộng Sản, Tư Bản là kết quả tất hữu của một nền văn minh nặng lý trí, nhẹ tình cảm, quên phắt con người, coi người như máy với giá trị năng suất. Nhân Loại hiện ở trong “Giờ thứ 25”, không còn là cuối cùng, mà sau cái cuối cùng. Sự thắc mắc tìm tòi, hy vọng không còn, chỉ còn một tiếng kêu thảm thiết và bây giờ, thành thực can đảm nhất là những kẻ nhận rằng Nhân Loại chết rồi.
Không quá bi quan như nhà văn Lỗ Mã Ni, có người nhận thấy rằng cái tìm tòi hi vọng của Gide trước chiến tranh, của Hiện Sinh sau chiến tranh có bề ngoài là sáng tạo một cái gì nhưng nhìn sâu chỉ là con đẻ của một nền văn minh đương hết. Nó không sáng tạo một cái gì vì muốn sáng tạo phải vượt lên cái đương hết nhưng mà cái văn minh này sở dĩ phá sản là bởi nó đặt nền tảng trên sự vị kỷ, và phái Hiện Sinh nhìn tất cả qua lăng kính cá nhân: tôn giáo cũng chỉ có nghĩa khi đưa đến cho cá nhân nhiều sự sống hơn. Và nếu Nhân Loại muốn còn thì nó phải còn với Tình Cảm, với cái Yêu, cái Thương vượt ra khỏi cái tôi hữu hạn, vì những xã hội hiện chỉ là những tổng số của những đơn vị vị kỷ, cả Nhân Loại chỉ là một khối vị kỷ khổng lồ, làm khổ mình, lẩn thẩn tìm nguyên nhân cái khổ, và lẩn quẩn gỡ cái khổ bằng cách thắt chặt nó vào.
Chúng ta là những kẻ đợi chờ.
Người xưa chờ giáo chủ, chúng ta đương lắng nghe tiếng nói của tâm linh nhưng cũng do một động lực.
Tất cả mọi tôn giáo, mọi luân lý, mọi chế độ đều rung chuyển, tất cả mọi người đều thắc mắc lo âu. Ngày mai đây là Bình Minh hay cũng là Tăm Tối đời đời?
Điều đó ta có thể mà cũng không có thể. Với lòng tin thì cái gì cũng phải có – với lòng tin thì chân lý nếu chưa có cũng phải ra đời.
Nhưng nếu thiếu lòng tin thì cái đã có cũng hóa ra hư ảo.
Thạch Trung Giả
Văn Học Phân Tích Toàn Thư, trang 656. Lá Bối in lần thứ nhất 1973
(l) Trước Đại Chiến, tư tưởng Hiện Sinh đã được đưa ra nhưng từ 1945 mới thực phổ biến mãnh liệt – Người ta thường quên Goethe mà chúng tôi thấy Hiện Sinh khởi tự Goethe với cuốn Faust. Và Goethe nói tiếng đầu tiên nhưng đến bây giờ, người hiện-sinh vẫn chưa tìm được một nửa cái Goethe đã thấy.
Nguồn: Uyên Nguyên thư quán
MP4- Nhớ HÌnh Bóng Xưa (THƠ THẠCH TRUNG GIẢ)
Đi tìm Thạch Trung Giả
Phật Việt – 20.5.2020
Trong một buổi mạn đàm văn học gần đây, tình cờ có người nhắc tới tên Thạch Trung Giả, một học giả của miền Nam trước 1975. Cũng chỉ là một nhắc nhở thoảng qua. Cũng thoáng qua là phần nhắc tới tên ông trong cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan (in lần thứ ba, California, Văn Nghệ, 2000) của nhà văn Võ Phiến, trang 149 và phần Tác Giả và Tác Phẩm ở cuối sách, với vỏn vẹn mấy chữ: “Thạch Trung Giả – Tác phẩm: Văn Học Phân Tích Toàn Thư (1973)”.
Lục trên thư mục của Thư Viện Quốc Hội thì thấy chỉ có mỗi cuốn trên, với các chi tiết sau:
Lục trên internet, Wikipedia.org vốn post đủ loại bài thượng vàng hạ cám nhưng cũng không thấy tên ông. Sục sạo một chặp nữa, chỉ thấy tên ông được nhắc tới tại một trang web ở Hà Nội, tên là Sách Xưa (sachxua.net), với hình bìa hai cuốn sách của ông, Văn Học Phân Tích Toàn Thư, Lá Bối xuất bản năm 1973 ở Sàigon, có kèm theo trang thủ bút đề tặng ai đó mà tên đã bị che đi; và cuốn Nhất nguyên thế giới, dịch của Swami Vivekânanda, do Cơ sở triết học Ấn Độ, Thái Bình Dương, 1971, xuất bản, có lẽ cũng tại Sài Gòn. Vì phải đăng ký mới vô được, nên tôi không biết những trang sách của ông có được post trên website Sách Xưa hay không. Đặc biệt, trên trang web có in hình bìa hai cuốn sách của ông, có dòng chữ, “Tiểu sử: bổ sung sau”. Tóm lại, trừ mấy chi tiết kể trên, kỳ dư không thấy còn dấu tích gì của một học giả đã một thời, trước 1975, công khai phản đối việc người ta đưa tên ông, mà không hỏi ý kiến, vào danh sách ban giám khảo của Giải Văn Học Nghệ Thuật của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hồi ấy.
Kệ sách Học Xá
Tuy vậy, tôi tình cờ và may mắn có được một kỷ niệm khó quên với ông, mà tôi đã ghi lại được khi ký ức chưa bị thời gian làm phai nhạt, trong một bài viết cho số báo ra mắt của tạp chí Thời Tập của nhà văn Viên Linh tái bản ở hải ngoại, vào mùa xuân 1979, trong thời kỳ báo chí sách vở chữ Việt ở hải ngoại còn phải bỏ dấu tay. Post lại ở đây phóng ảnh một bài viết cũ dính dáng tới cá nhân cầm bút của mình không ngoài mục đích hy vọng có ai biết chút gì về học giả Thạch Trung Giả thì bổ sung, giúp cho những ai muốn tìm hiểu về ông trong bối cảnh văn học Miền Nam 1954-1975. Hình như tôi viết bài này hồi ấy là do nghe tin ông đã tự tử chết. Tin này về sau tôi cũng không có dịp kiểm chứng xem thực hư thế nào. Từ đấy tới nay, bao nhiêu nước đã chảy qua dưới cầu…
Xin mời đọc.
THẠCH TRUNG GIẢ
MỘT CÁI HẸN KHÔNG BAO GIỜ CÒN ĐƯỢC THỰC HIỆN
bài của TRÙNG DƯƠNG
Nếu nghiệp cầm bút làm tôi mất một số ngưởi thân, thì ngược lại cũng đem đến cho tôi nhiều ấm áp tình người, và ‘buồn ít hơn vui’ như Phạm Duy nói trong bài ca Nghìn Trùng Xa Cách. Một kỷ niệm xảy ra gần ngày xụp đổ của Miền Nam Việt Nam khiến tôi không bao giờ có thể quên được.
Mặc dù biết tiếng nhau qua văn chương, nhưng nhà văn Thạch Trung Giả và tôi chưa một lần gặp nhau trò chuyện. Một buổi sáng khi báo Sóng Thần đã bị đóng cửa, theo thói quen tôi vẫn đến tòa báo, – đang bị chủ nhà dọa đóng nốt – để nghe ngóng tin tức về vụ kiện chinh quyền đã ‘vi hiến vi luật khi rút biên lai đóng cửa năm tờ báo’ trong có ST, để khất nợ, ,để đòi nợ và để có lý do ra khỏi nhà mỗi buổi sáng. Khi tôi đang ngồi bên quán nước ở trước cửa tòa soạn, có một ngưòi đàn ông trạc năm mươi tuổi ôm theo một cái cặp vào quán đến chổ tôi ngồi, tự giới thiệu là Thạch Trung Giả. Dân văn-nghệ chưa gặp nhưng đã quen. Tôi như kẻ ngã ngựa, đưọc một học giả đi tìm không khỏi ngỡ ngàng lẫn hãnh diện, nhất ngưởi đó lại là ngưòi đã từng phản đối việc người ta bốc đại tên ông bỏ vào danh sách Hội đồng Chấm giải Văn học Nghệ thuật.
Ông Thạch Trung Giả cho biết lý do ông đến tim tôi, là để hỏi xem tôi có nhận được một lá thư ‘dài lắm’ mà ông viết và gửi bảo đảm cho tôi nhân đọc truyện Người Con Gái Tuổi Mèo của tôi đăng trên tạp chí Thời Tập của Viên Linh cách đó một hai tháng.
Tôi nhớ lại trường hợp viết truyện Người Con Gái Tuổi Mèo, Viên Linh muốn có bài của tôi đăng trên Thời Tập Mùa Xuân 1975 mà tội thì từ ngày nhảy ra làm tờ ST ngất ngư với những thăng trầm của nó, có sáng tác gì được đâu. Đã gần ngày phải giao bài, một bữa ngồi tại tòa soạn, ngắm ký giả Hùng Phong đầu hói, nhỏ bé, vui tính và nữ văn sĩ kiêm ký giả Thục Viên mà tôi rất mến, có dáng cao lớn, tính tình ngay thực bốp chát – tôi viết xong cái truyện nội một buổi sáng, đọc phớt qua, rồi nhờ người mang lại tòa soạn TT.
Hùng Phong và Thục Viên quen biết nhau rất sơ sài qua tình đồng nghiệp, nhưng tôi cho hai người đó là bạn thân trong truyện. Đó là câu chuyện về một nữ ký giả không lấy gì làm nổi lắm, nhưng độc lập, có người cha vì tính-tình quá ngay thực nên suốt đời chỉ gặp toàn những đổ vỡ, thất bại, và một bà chị góa chịu đựng, làm chủ một tiệm bán hoa giả. Câu chuyện xoay xung quanh cái chết dần mòn của người cha vào một dịp cuối năm khi tất cả mọi người đều vội vã tất tả như thể cái Tết có khả năng ‘ngắt thời gian ra làm hai’ và khiến cho ai nấy vội vã hối hả như thể ‘ngày mai sẽ không bao giờ đến nữa’.
……
Tôi muốn nói về cái cuộc chiến tuy không được đề cập đến trong truyện nhưng ẩn hiện qua từng nhân vật: người cha đại diện cho thế hệ gồm những hư sự chỉ vì thực thà, cả tin; người con gái lớn đại diện cho cái thế hệ chịu đựng của những người đàn bà thời chiến, người con gai thứ hai tức người nữ ký giả đại diện cho cái thế hệ đang lớn bơ vơ, xa lạ, nửa muốn phá phách, nổi loạn, nửa muốn cười dài trong quên lãng, dửng dưng.
Dĩ nhiên trong khi sáng tác, tôi không vạch ra cái chủ đề trên. Công việc sáng tác là một hành trình bộc phát từ những năm tháng suy tư. Tôi chỉ nhận ra điều đó sau khi tiếp xúc với ông Thạch Trung Giả, nghe ông bày tỏ nổi ngạc nhiên lẫn thich thú khi đọc Người Con Gái Tuổi Mèo. Sự ngạc nhiên lẫn thích thú ấy đã khiến ông phải xét lại cái thành kiến đối với các cây bút phụ nữ, mà ông cho rằng chỉ toàn sáng tác ra những truyện tình ướt át, tô đậm những khổ đau cá nhân, có tính cách mua vui hơn là nói lên một cái gì có tầm vóc lớn hơn là những riêng tư. Và với tác phong cố hữu của một học giả, ông đi tìm sách của tôi đọc. Ngoài tiệm thì không có bán sách tôi vì phần lớn sách tôi được in dưới hình thức tạp chí, một cách để khỏi bị kiểm duyệt, nhưng ngược lại, nếu bộ Thông tin không hài lòng vẫn có thể tich thu. Thư viện thì chỉ có thư viện Quốc gia là lớn nhất nhưng khó mượn sách. Chỉ còn cách đi mướn sách tại những nhà cho mướn truyện, những “thư viện tư” có tiếng là đầy đủ sách nhất, từ thượng vàng hạ cám. Ông Thạch Trung Giả cho tôi biết ông đã dành ra mấy ngày Tết, đóng cửa nằm nhà đọc hết những cuốn sách của tôi. Sau đó, ông ngồi viết cho tôi một cái thư rất dài, nhận xét về các truyện của tôi, cẩn thận gởi bảo đảm hẳn hòi. Kết quả là tôi không nhận được cái thư dù là bảo đảm đó của ông. Ông Thạch Trung Giả nói còn giữ bản sao lá thư đó, sẽ đưa tôi đọc. Tôi hứa sẽ xuống thăm ông ở bên Gia định một ngày gần.
Trong đời cầm bút viết văn, có lẽ buổi tiếp xúc với ông Thạch Trung Giả vào buổi sáng hôm đó là kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi. Ông Thạch Trung Giả khuyên tôi nên bỏ nghề báo, trở lại với văn chương. Ông chẳng khuyên thì tôi cũng đã bị cưỡng bách phải bỏ nghề báo khi tờ Sóng Thần bị đóng cửa.
Kể tiếp sau cuộc tiếp xúc với ông Thạch Trung Giả là những biến cố Ban mê thuột, rồi Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Quảng ngải v. v. . . và những băn khoăn đi hay ở. Tôi không còn tâm trí, dù rất nhiều thì giờ để xuống thăm ông Thạch Trung Giả như đã hứa.
Ngày sửa soạn ra đi, tôi tình cờ bắt gặp cái truyện ngắn Người Con Gái Tuổi Mèo trong Thời Tập xuân 75 nên xé ra, nhét vội vào đống giấy tờ mang theo. Tôi bùi ngùi nhớ tới cái hẹn vẫn chưa thực hiện …
Thời Tập
Số 1, Tháng 4/1979
Trùng Dương
Nguồn: tienve.org