70 năm “Tây tiến” và quãng đời lận đận của Quang Dũng

(Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến)

Hoàng Tuấn Minh

Hôm nay tròn 30 năm ngày nhà thơ Quang Dũng qua đời đồng thời cũng là 70 năm bài thơ Tây Tiến ra đời. Xin viết đôi dòng thay cho nén nhang thơm để tưởng nhớ nhà thơ mang trong mình dòng máu lãng du vào loại bậc nhất trong thi đàn đất Việt thế kỷ XX, người con của mảnh đất Đan Phượng, xứ Đoài quê tôi.

*******

1. Dấu tích ngôi nhà xưa

Ngày ấy hồi đầu những năm 70 thế kỷ trước, cha tôi làm thương nghiệp trên phố huyện (thị trấn Phùng) thỉnh thoảng những kỳ nghỉ hè ông cho tôi sang Phùng đến khu làm việc kiêm chỗ ở. Căn phòng hai cha con ở đầu nhà căn nhà lớn (nền nhà rất cao, đi từ dưới sân lên nhà bằng ba bậc tam cấp) nằm bên cạnh con ngồi sát dãy nhà kế đường vào chợ Phùng, có cửa sổ mở hướng tây nhìn ra phía bãi dâu và tận tít xa là đỉnh núi Ba Vì nổi bật trên bầu trời xanh, mây trắng. Nhiều đêm tiếng còi vào ca ba từ nhà máy đường Tam Hiệp bên Quốc Oai vọng về làm thức giấc, tôi ngẩn ngơ hàng giờ bên khung cửa sổ ngắm nhìn ánh trăng bàng bạc trải dài nương dâu và lặng người nghe tiếng sáo diều ai chơi khuya đang réo rắt trong đêm.

Nghe cha kể lại thì khu nhà đó của cụ Tổng Phùng, vừa là nhà ở vừa là cửa hàng bán gạo muối. Sau khi cụ Tổng và gia đình di cư vào Nam năm 1954 thì chính quyền trưng thu và giao cho Cửa hàng nông sản thực phẩm Đan Phượng quản lý.

Sau này lớn lên tìm hiểu qua các cụ cao niên ở đây mới biết là nhà thơ Quang Dũng, tác giả của những bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… chính là con cụ Tổng Phùng. Và đây chính căn buồng ngày xưa ông đã ở. Có lẽ từ căn buồng này, từ khuôn cửa sổ này đã khiến con tim, vần thơ của ông mang đậm hình ảnh núi Ba Vì, mây trắng xứ Đoài và tiếng sáo diều đêm khuya khoắt. Dấu tích nhà xưa giờ đây không còn nữa, có còn lại chăng chỉ mỗi cánh đồng xưa nhưng màu xanh bãi dâu được thay bằng màu xanh cánh đồng ngô bạt ngàn của Viện nghiên cứu ngô mà thôi.

2. Đôi dòng sơ lược

Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu, sau này vì thiếu tuổi đi học, phải mượn tên của người anh họ là Bùi Đình Diệm, ông sinh năm Tân Dậu 1921 tại làng Phượng Trì, tổng Đại Phùng, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Cụ thân sinh của ông tên là Bùi Đình Khuê trước làm Chánh tổng tổng Đại Phùng. Vì cụ thuộc lớp nho học nên dân trong vùng còn hay gọi là cụ Tú Khuê. Cụ đã mât từ năm 1942.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945 với nhiệt huyết yêu nước của tuổi thanh niên mới lớn còn bồng bột, Quang Dũng tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng với mục đích để đánh Tây. Ông từng làm thư ký cho Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một trong những chủ soái của Tự lực Văn Đoàn và là lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau đó được cử sang Trung Quốc hoạt động, trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã theo học và tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố nổi tiếng của Trung Quốc. Tại trường này ông đã gặp và quen với Hoàng Sâm, người mà ba năm sau là Đội trưởng đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của QĐND Việt Nam) và được phong Thiếu tướng đợt đầu tiên năm 1948.

Năm 1945 Quang Dũng tốt nghiệp Ban Trung học của trường Thăng Long, nhận rõ bản chất cũng như không kỳ vọng gì ở Việt Nam Quốc dân Đảng, ông rời khỏi Đảng này và đi dạy học tư ở Sơn Tây kiếm sống. Khi Hoàng Sâm chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tiến về Sơn Tây để bảo vệ chính quyền mới thành lập ở khu vực Tây – Tây Bắc Hà Nội thì gặp lại Quang Dũng. Với sự vận động của Hoàng Sâm vào ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông đã bỏ tất cả để gia nhập quân đội. Hoàng Sâm giới thiệu và tiến cử Quang Dũng với Võ Nguyên Giáp là người đồng chí, người đồng hương của mình. Vai trò đầu tiên của ông là phóng viên tiền phương của báo Chiến Đấu. Đến năm 1947, ông được gửi đi học ở trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, ông được điều về làm đại đội trưởng trong tiểu đoàn 212, thuộc trung đoàn 52 Tây Tiến. Ông đã tham dự chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua Tây Bắc. Chính trong chiến dịch Tây Tiến này, Quang Dũng và những người con yêu của đất nước, đủ thành phần, hầu hết là thanh niên học sinh người Hà Nội, đã trải qua những tháng ngày cực kỳ gian khổ và cũng tràn đầy tính cách hào hùng, bi tráng, quyết liệt. “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đó.


(Gia đình Quang Dũng)

3. Quãng đời lận đận, khốn khó

Dù ông tham gia nhiều trận, nhiều chiến dịch, tham gia đoàn quân Tây Tiến, thế mà ông vẫn cứ giữ mãi chức cao nhất là đại đội trưởng. Cho dù là một người có học thức, đa tài. Cho dù ông có tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố nhưng với xuất thân là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, là “con Chánh Tổng” nên ông luôn luôn bị nghi ngờ, không được tin dùng. Ông giải ngũ năm 1951.

Sau 1954, khi về Hà Nội, ai cũng vẫn được bố trí công tác, riêng Quang Dũng thì bị Tố Hữu ghen ghét về tài làm thơ, không cho làm bất cứ một công tác nào cả. Tố Hữu ra lệnh cho ông Nguyễn Đình Thi, Chủ tịch Hội Văn Nghệ VN, cho các đàn em viết báo, mở một chiến dịch phê phán thơ Quang Dũng. Họ liên tiếp viết nhiều bài phê bình thơ Quang Dũng. Những hình ảnh chân thực, bi hùng của đoàn quân Tây Tiến bị mổ xẻ, bị phê bình tơi bời. Bài thơ Tây Tiến ngày đó luôn được xem như một dẫn chứng để phê phán khuynh hướng tiểu tư sản trong thơ kháng chiến. Người ta bảo thơ ông lãng mạn, đồi trụy, tiểu tư sản, đang trong lúc toàn dân sôi sục đánh giặc Pháp thì lại làm thơ tơ tưởng về những cô gái Hà Nội dáng kiều thơm làm chao đảo và nhụt chí khí chiến đấu của toàn dân, toàn quân.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc những năm 1955-1958, mặc dù ông không tham gia gì trong vụ này, nhưng ông vẫn bị gửi đi chỉnh huấn sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bị cô lập vì cách hiểu, áp đặt quan điểm chính trị thô thiển của những con người thuộc chế độ độc Đảng không chấp nhận đa nguyên, Quang Dũng lặng lẽ “chìm xuồng” dành lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật.

Bài thơ “Tây tiến” nổi tiếng của ông trở thành nỗi oan gia không chỉ cho ông mà cho cả gia đình ông. Con gái nhà thơ, chị Bùi Phương Hạ làm cô giáo thì ra trường không được vào biên chế, phải chấp nhận rời bỏ thủ đô xung phong vào khu kinh tế mới Hà Nội tại Nam Ban (Lâm Đồng) xa xôi đến ba năm mới được vào biên chế. Thương con còn trẻ, vất vả nơi “rừng thiêng, nước độc”, ông cũng lặn lội vào để chăm sóc cho con. Còn con trai cả, nhạc sĩ Bùi Quang Vĩnh, cũng phải phiêu bạt lên công tác tại Thái Nguyên.

Cuộc đời của ông lận đận cho đến ngày qua đời trong đói khổ, bệnh tật tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Lúc ấy những đồng nghiệp của ông tại báo Văn Nghệ, Nhà xuất bản Văn học đồng lòng đề nghị Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi đưa ông vào bệnh viện Việt – Xô để đủ phương tiện chạy chữa nhưng “cấp trên” không đồng ý. Anh em đều biết là ông Tố Hữu không chấp thuận.


Nhà thơ Quang Dũng và con gái Bùi Phương Hạ (áo đỏ, bìa phải) tại ngôi trường mẫu giáo
Nam Ban (Lâm Hà – Lâm Đồng)

4. “Nỗi sợ” dai dẳng suốt cuộc đời

Ở miền Bắc, từ sau 1954 thơ của ông bị phê bình trên báo chí vì mang hơi hướng “tiểu tư sản”, thiếu tính chiến đấu nên cấm lưu hành còn ở miền Nam thì được xuất bản, ngâm thơ, phổ nhạc, lưu truyền rộng rãi và được rất nhiều người yêu thích.

Chất hào sảng, lãng mạn đậm nét chinh chiến phong trần trong “Tây Tiến” đã chiếm lĩnh bền sâu trong muôn tâm hồn đồng điệu, vượt qua thời gian, vượt qua giới tuyến, xóa nhòa mọi khoảng cách địa lý và thể chế do người đời phân định. Cho đến tận bây giờ, có lẽ đây là bài thơ duy nhất của người lính Cộng sản miền Bắc được ngay cả những người lính Cộng hòa miền Nam cũng yêu thích chép lại trong sổ tay.

Giáo sư Hoàng Như Mai kể lại: “Sau giải phóng, tôi vào Sài Gòn giảng bài, có đọc sách báo cũ. Gặp anh giữa phố Hà Nội, tôi bô bô: Này ông Quang Dũng, Sài Gòn họ ca tụng ông ghê lắm, có đến mấy đặc san về ông. Anh vội xua tay nói khẽ: “Thôi xin ông, ông đừng nói với ai nhé”.
Ngay cả bạn bè thân thiết hay bạn đọc ngưỡng mộ, yêu thơ ông muốn xin bút tích của ông làm kỷ niệm thì ông đều cười trừ và dứt khoát từ chối.
Năm cuối đời 1988, khi thấy bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” của mình (được nhạc sỹ Phạm Đình Chương phổ nhạc) lần đầu tiên phát trên Paris by night, một video ca nhạc hải ngoại, cũng khiến nhà thơ lo lắng mất ăn mất ngủ mấy ngày liền.

Tất cả nguyên nhân “nỗi sợ” trên thì rất nhiều người đã biết nhưng có một nguyên nhân khác mà ông vẫn nén chặt trong lòng mà rất ít người biết ngoài ông và Tố Hữu. Tố Hữu được biết là do Cục 2 cung cấp thông tin cho lãnh đạo cấp chiến lược. Đó là ông có người em trai nắm trọng trách trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa ở bên kia “chiến tuyến”. Đây có lẽ cũng là nguyên nhân tới tận cuối đời mà ông vẫn bị “đì”.

5. Về người em trai ở bên kia “chiến tuyến”

Năm 1946, ông Bùi Đình Đạm tốt nghiệp Tú tài toàn phần chương trình Pháp tại Hà Nội. Sau đó, ông được tuyển dụng làm công chức tại Hà Đông. Năm 1948, thi hành lệnh động viên, ông phải nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp và theo học khóa 1 Bảo Đại tại trường Võ bị Huế. Chức vụ cuối cùng trong Quân đội Liên hiệp Pháp là Tham mưu trưởng trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức với cấp bậc Thiếu tá.
Sau khi Việt Nam Cộng hòa ra đời (ngày 26/10/1955), ông chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông được thăng chức dần dần trong những năm sau đó, lên tới Đại tá, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh năm 1962 và được thăng cấp bậc thiếu tướng (2 sao) năm 1970. Vào năm 1973, ông được cử giữ chức Tổng Giám đốc Tổng nha Nhân lực Bộ Quốc phòng và giữ chức này cho đến hết tháng 4/1975.
Sau ngày 30/4/1975, ông cùng gia đình di tản ra khỏi Việt Nam và định cư tại San Jose, California (Hoa Kỳ) và ở đó cho đến ngày qua đời (năm 2009).
Ông Đạm rất hiếu học, mặc dù với nhiều trọng trách trong Quân đội nhưng ông vẫn tiếp tục trau dồi thêm văn hóa và kiến thức. Ông từng đi du học ngành Quản Trị tại Pháp những năm1950-1952. Ông từng tốt nghiệp cử nhân văn khoa Viện Ðại học Sài Gòn năm 1970. Năm 1983, ông tốt nghiệp Cao học Xã hội (MSW) tại Viện Đại học San Jose, California, Hoa Kỳ. Ông đã viết và xuất bản tác phẩm “Những áng văn hay” với bút danh Đan Phượng.

Bài thơ Tây Tiến cũng như thân phận tác giả đã nếm đủ nỗi thăng trầm thế sự, hơn 40 năm bị cho là “có vấn đề” người ta đã cố ý “nhấn chìm” nó đi, tưởng nó đã đi vào quên lãng nhưng Tây Tiến vẫn vượt qua sức cản phá của thời gian, đã trở thành bất tử, có chỗ đứng vĩnh viễn trong lòng người thưởng ngoạn. Bài thơ Tây Tiến hôm nay đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường rồi được khắc vào bia đá, bia tưởng niệm các liệt sỹ và ghi chiến tích Trung đoàn 52 Tây Tiến dựng ở Mai Châu (Hòa Bình). Tới năm 2001, ông mới được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Đây là phần thưởng tinh thần, là điều an ủi lớn nhất cho vong linh của nhà thơ xứ Đoài nơi chín suối?

BÀI THƠ TÂY TIẾN

Quang Dũng

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

14/10/2018
   H.T.M.

 Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

http://xuandienhannom.blogspot.com/2018/10/70-nam-tay-tien



Quang Dũng (1921–1988) là tác giả một số bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… Ngoài ra ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, ông bị phê bình nặng nề, sống ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Con gái ông, Bùi Phương Hạ lận đận vì lý lịch của cha.
Năm 1982, Quang Dũng vào thăm con gái ở khu kinh tế mới Lâm Đồng, sống ở đó vài năm. Nhà thơ Trần Ngọc Trác khi đó làm việc tại đây, đã có mối quan hệ thân thiết với hai cha con nhà thơ. Trác đã viết lại bài viết này sau khi Quang Dũng mất. Bùi Phương Hạ cũng qua đời sau ông vài năm.



Con gái Quang Dũng lận đận với “Tây tiến”

Trần Ngọc Trác




Nhà thơ Quang Dũng và con gái Bùi Phương Hạ (ảnh tư liệu của TNT)


Cuối năm 1982 tôi rời Đà Lạt đưa gia đình về định cư ở vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Gia đình tôi có hai cháu nhỏ. Cháu trai đầu ba tuổi và cháu gái mới sinh được ba tháng tuổi. Cuộc đời tôi bắt đầu từ những năm tháng khốn khó của thời bao cấp.
Tôi gởi cháu trai vào học lớp mẫu giáo của cô Bùi Phương Hạ. Không ngờ Hạ chính là con gái của nhà thơ Quang Dũng.
Những năm đó ở vùng kinh tế mới, lãnh đạo Hà Nội đưa các thầy cô giáo của thủ đô tăng cường vào dạy học ở Lâm Đồng. Rất nhiều cô gíáo xinh đẹp đã có mặt ở đây. Hạ là một trong những cô giáo như thế.

Một buổi chiều, chúng tôi đốt lửa lên nấu một nồi chè đỗ đen, loại đỗ có hạt rất to do tôi trồng vừa mới thu hoạch mấy ngày. Chúng tôi với mấy cô giáo dạy mẫu giáo quây quần bên nồi chè ngun ngút khói, thơm lựng, trong đó có Hạ.
Hạ kể: Khi em lớn lên, em đi học ở Hà Nội mới biết thơ của cha bị coi là tiểu tư sản. Trong sách giáo khoa trung học còn có những dòng rất nặng nề về thơ của cha. Các anh chị em của em lớn lên sinh sống thật khó khăn. Bài thơ “Tây tiến” nổi tiếng của cha trở thành oan gia cho gia đình. Họ bảo: Cha em đã đi theo cách mạng, chiến đấu mà còn mơ tưởng về những cô gái Hà Nội, là tiểu tư sản phải xem xét lại. Vậy là cuộc đời của cha em lận đận cho đến ngày qua đời trong đói khổ ở bệnh viện. Bản thân em ra trường không được vào biên chế Nhà nước.
Nhưng em không quan tâm lắm, em muốn các cháu bây giờ được đi học, được vui vẻ là em mừng lắm rồi.
Trong ánh mặt Hạ lúc đó ánh lên những giọt nước mắt long lanh. Trong ánh đèn điện tù mù ở kinh tế mới tôi nhận thấy trong mắt em buồn. Nỗi buồn xa xăm vời vợi của một thời tuổi trẻ như chúng tôi.

Trong câu chuyện, tôi cố hướng về những kỷ niệm ngày xưa của nhà thơ Quang Dũng, nhưng Hạ bảo: Buồn lắm anh ơi! Và không kể gì nhiều về cha mình. Từ đó, chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.
Nhà thơ Quang Dũng lên thăm và ở lại với con gái rất nhiều ngày. Ông rất thương con vì thơ mình mà vất vả, oan khiên từ những bài thơ lãng mạn mà mình đã viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Những câu thơ lung linh ,sáng lòa, sang trọng như thế mà trở thành nỗi đau cho cuộc đời các con, có lẽ nhà thơ Quang Dũng cũng không bao giờ lường hết được.

Một lần nhà thơ Quang Dũng đến chơi nhà, ông đã hướng dẫn cho tôi cách tập thể dục mỗi sáng sớm trước khi bước ra khỏi giường. Ông bảo: Cần phải có một số động tác vận động làm cho toàn thân ấm lên. Không được vùng dậy bước xuống đất mà chưa khởi động. Rồi ông “biểu diễn” cho tôi xem.
Nhà thơ Quang Dũng cao to như Tây. Ông từng bị dân quân bắt trói dẫn về trụ sở xã, vì tưởng ông là phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. May có người biết chuyện nói cho bà con nghe, ông mới được thả.
Nhà thơ Quang Dũng ăn uống rất khỏe, nhưng rất từ tốn, chậm rãi. Hôm đó, tôi nấu một nồi bắp nếp Tây Nguyên. Đây là sản phẩm tôi lao động tự túc trên mảnh đất sau đài truyền thanh của vùng. Quả bắp to dài, hạt mẩy. Quả bắp vừa nhắc từ nồi ra còn nóng hổi. Tôi mời ông dùng, ông cảm ơn vừa cầm quả bắp, vừa ăn vừa nói chuyện. Một hồi lâu ông bảo: Mình đếm được 987 hạt nhé! Và cầm bát nước bắp luộc lên uống từ tốn. Tôi thật ngạc nhiên.

Nhà thơ Quang Dũng hay đến nhà tôi chơi. Nhà tôi lúc đó nằm ở dưới thung lũng của dốc Phì Phò, khu Đống Đa kinh tế mới Hà Nội. Căn nhà gỗ tôi mua lại của một thanh niên tiền trạm vừa về Hà Nội. Nhà lợp ngói prociment, ba bức tường xung quanh làm bằng đất sét trộn với rơm. Mặt trước là những tấm ván thưng, đứng ở ngoài nhìn thấy rõ bên trong. Quanh năm gió lùa lồng lộng. Nền nhà đất lổm chổm. Tuy vậy nhà vẫn có ba gian, xung quanh vườn toàn cỏ tranh. Nhà thơ Quang Dũng đến chơi, thường chống gậy. Cháu trai đầu của tôi khi nghe ông đến lại chạy lên dìu ông xuống nhà. Nhà hơi dốc, nhưng ông vẫn đi. Một lần, ông vừa đi chơi Đà Lạt về mang theo một nải chuối chín. Ông bảo: Đây là quà của hai cháu nhỏ.

Tôi hay gọi nhà thơ Quang Dũng bằng bác. Hai bác cháu nói chuyện rất tâm đắc. Nhà thơ Quang Dũng hôm đó ở lại dùng cơm trưa với gia đình. Đến chiều, tôi đưa nhà thơ Quang Dũng về nhà Bùi Phương Hạ. Nói là nhà của Hạ, thật ra là căn phòng nhỏ trong khu tập thể dành cho giáo viên. Hai bác cháu vừa đi chậm rãi, vừa nói chuyện từ khu Đống Đa vào đến Trường Đông Anh dưới dốc Bà Mão hơn 7 cây số. Nhưng khi tôi hỏi nhà thơ Quang Dũng về những ngày khó khăn khi bài thơ Tây Tiến bị “đánh”, thì bác nói sang chuyện khác, và có chút gì đó sờ sợ trong ánh mắt của nhà thơ. Tôi lại nói sang chuyện khác, thấy nhà thơ vui hẳn lên. Bác hỏi tôi về việc Hạ sẽ lấy chồng ở Nam Ban, ý tôi thế nào v.v…
Những lúc rỗi, ông hay lên Đà Lạt chơi và rất yêu vùng đất này. Nhà thơ cũng có dự định vào Nam Ban ở hẳn với gia đình tôi để viết truyện ký, làm thơ. Nhưng mấy năm sau trở về Hà Nội do sức khỏe không được tốt nên nhà thơ không vào được nữa.

Một lần, nhà thơ Quang Dũng bị tai biến. Bàn tay của nhà thơ không duỗi ra được. Bùi Phương Hạ chăm sóc cho bố tận tình. Nhưng hằng ngày nhà thơ Quang Dũng vẫn đi ra giếng của hợp tác xã cách khu tập thể giáo viên mấy trăm mét, xách nước về cho Hạ. Hạ không đồng ý, nhưng nhà thơ bảo rằng: Cần phải tập luyện để bàn tay trở lại như cũ. Lần sau, vào thăm nhà thơ Quang Dũng, bác khoe đã viết được rồi và đưa cho tôi xem mấy trang bản thảo nhà thơ vừa viết xong. Nét chữ tuy không còn như xưa, nhưng vẫn hiện lên những cảm xúc mà ông dành tâm huyết thổ lộ trong đó.

Ngày Bùi Phương Hạ còn dạy học ở Nam Ban, Hạ có tặng cho tôi một bức ảnh về nhà thơ Quang Dũng đội mũ ca-lô. Tôi thấy chiếc mũ hơi là lạ. Tôi hỏi. Hạ giải thích: Đó là chiếc mũ làm bằng… chiếc khăn quàng bằng len. Em quấn chiếc khăn lên đầu bố, kết thành chiếc mũ ca-lô như thời bố đi bộ đội Tây tiến. Con trai bác Trần Lê Văn (bạn thân của nhà thơ Quang Dũng) đã chụp bức ảnh này và tặng em. Sau đó tôi đã gởi bức ảnh kèm theo bài viết về Quang Dũng in trên báo Lâm Đồng.

Khoảng cuối năm 1984, Bùi Phương Hạ và một số cô giáo đi tăng cường ở vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng được trở về thủ đô. Tháng 8 năm 1988, tôi ra Hà Nội và cùng anh trai tôi là nhà văn Trần Phương Trà, công tác ở Ban văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đi xe đạp đến trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học nghệ Việt Nam số 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Hôm đó là ngày tang thương của giới văn nghệ. Nỗi buồn không sao tả nổi, khi ba chiếc quan tài sắp xếp bên nhau của nhà thơ Xuân Quỳnh, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và cháu Lưu Quỳnh Thơ. Không ai bảo ai, mọi người lặng lẽ, đau buồn, nước mắt cũng lặng lẽ trào ra.

Sau đó, tôi đề nghị anh trai tôi chở tôi ghé qua thăm nhà thơ Quang Dũng ở nhà số 45 khu tập thể Nguyễn Công Trứ. Thời kỳ đó, Quang Dũng đang bệnh nặng. Ông nằm trên chiếc giường bệnh, phủ drap trắng. Tôi không tin trước mắt mình là nhà thơ Quang Dũng. Một con người to cao như Tây ngày nào, bây giờ là một bộ xương khô, teo tóp, lọt thỏm trên chiếc giường hơn một mét rưỡi. Trên khuôn mặt ông vẫn rạng rỡ. Mắt ông nhắm nghiền. Bà Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng ghé miệng vào tai nhà thơ nói nhỏ: Có anh Trác ở Lâm Đồng ra thăm ông. Tôi thấy trên khóe mắt nhà thơ hai giọt nước mắt rơi ra lăn xuống đôi má hóp. Miệng ông thoáng một nụ cười nhẹ. Hôm đó tôi mang theo máy ảnh, nhưng không dám chụp, sợ ánh đèn flass lóe lên ảnh hưởng đến sức khỏe của nhà thơ Quang Dũng. Trên đường về, tôi kể lại, anh trai tôi trách sao không chụp ảnh. Mỗi lần nhớ đến, tôi rất lấy làm tiếc.

Rời Hà Nội trở về Đà Lạt, trong một thời gian ngắn sau đó tôi nhận được tin nhà thơ Quang Dũng đã từ trần tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.

Sau này khi theo học khoa ngữ văn trường Đại học Đà Lạt năm 1986, tôi đã làm luận văn tốt nghiệp “Đất nước, con người trong thơ Quang Dũng”, là một trong những luận văn lúc đó được nhà trường đánh giá cao.

Để có những ngày bên nhà thơ Quang Dũng, tôi thầm cảm ơn Bùi Phương Hạ. Hạ có chiều cao như bố. Mỗi lần anh em đi chơi với nhau, tôi bao giờ cũng đi trên lề cao, Hạ đi dưới lòng đường. Tôi chỉ có 1,65 mét, trong lúc đó Hạ cao hơn 1,7 mét. Khuôn mặt của Hạ đẹp như bố, mắt to, mũi cao. Về sau, Hạ lấy Nam, sinh được cháu Bảo. Cháu Bảo rất đẹp trai, khuôn mặt giống mẹ. Khi nghe tin Bùi Phương Hạ mất, tôi thật sự bàng hoàng. Thương Hạ, tôi viết bài thơ:

Cha thương em lặn lội lên rừng
Đêm trở rét dạ sờn không đủ ấm
Ngoài kia gió quần lên cấp chín
Dáng cha to bè đốt lửa đêm đêm

Em bình lặng như đời trong sạch quá
Em vô tư đến lớp đến trường
Bầy em nhỏ trong căn nhà nhỏ
Làm dịu êm một kiếp ly hương

Mười năm ra trường còn lận đận
Vì em – con Quang Dũng nhà thơ
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
Câu thơ xưa gian khó đến bây giờ…

Hà Nội hôm nay nhà cao, đường rộng
Em trở về tay trắng như xưa
Ba năm lên rừng, em vào biên chế
Cuộc đời thêm trang biết mấy cho vừa

Anh thảng thốt
không ngờ
em ra người thiên cổ
Ngày nào đây còn sưởi lửa cùng nhau
Nhà thơ lớn – cha em ngồi đó
Bóng ông đỏ lừ sáng mãi mai sau.


Mấy lần ra Hà Nội, tôi đến thăm nhà thơ Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Lữ Giang, nhạc sĩ Mặc Hy… những người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng, tôi được nghe nhiều câu chuyện về nhà thơ Quang Dũng, càng hiểu hơn nhân cách lớn của ông.
Bây giờ tôi không còn được thấy nhà thơ Quang Dũng, em Bùi Phương Hạ bằng xương bằng thịt – nhưng hình ảnh của hai bố con ông luôn hiện hữu trong tôi. Những kỷ niệm không thể nào quên ấy sẽ mãi mãi đi suốt cuộc đời của tôi. Đó là những con người mà tôi vô cùng yêu quý, kính trọng. Những năm tháng khó khăn, vất vả của thời bao cấp không làm cho hai bố con gục ngã.
Nhân cách lớn đã làm nên một con người. Không chỉ là những bài thơ để đời và ở lại với triệu triệu trái tim người mà là đạo lý làm người của nhà thơ Quang Dũng.
Trần Ngọc Trác

https://xunauvn.org/2012/05/27/doc-tho-giua-rung/

http://www.chimvenuinhan.com/2021/04/con-gai-quang-dung-lan-voi-tay-tien.html

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *