Nguyễn Thụy Đan, một khuôn mặt độc đáo của văn chương hải ngoại (Trần Doãn Nho) + Nguyễn Thụy Đan và bầu trời cổ thi ở New York (Nguyễn Thị Bích Hậu)

Nguyễn Thụy Đan, một khuôn mặt độc đáo của văn chương hải ngoại

Trần Doãn Nho

(Nguyễn Thụy Đan)

December 16, 2021

Thư Quán Bản Thảo số 91 có chủ đề “Đầu Xuân Lộc Mới,” mượn mùa Xuân “để giới thiệu một lộc quý hiếm trong sinh hoạt văn học ngoài nước: Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan,” theo nhà văn Trần Hoài Thư, chủ nhiệm kiêm chủ bút của tạp chí này.

“Nho sinh” Nguyễn Thụy Đan – bên những cuốn sách sưu tầm được từ những năm mới 17, 18 tuổi.

“Lộc quý hiếm” Nguyễn Thụy Đan là ai?

Trả lời cho câu hỏi này, Thư Quán Bản Thảo dành phần đầu tiên trong ba phần, “Viết Về Nguyễn Thụy Đan,” qua đó, các tác giả Tô Thẩm Huy, Nguyễn Văn Sâm, Thiên Đồng, Trần Đông Đức, Nguyễn Thị Mai Quyên và Hạt Cát lần lượt dựng nên chân dung sống động của cây bút này qua nhiều dáng nét khác nhau.

Về tiểu sử, theo nhà biên khảo Tô Thẩm Huy, Nguyễn Thụy Đan chào đời ở Sacramento, tiểu bang California, năm 1994. Năm 13 tuổi anh theo cha mẹ về thăm Việt Nam, đi khắp ba miền Bắc Trung Nam. Đến Hà Nội mua được một quyển tự điển chữ Nôm và bắt đầu tự học, làm quen với cổ ngữ từ đấy.

Năm 16 tuổi, anh theo chân dòng Đức Bà Truyền Giáo về Việt Nam dạy tiếng Anh ở Củ Chi, đồng thời nhân dịp ấy học thêm chữ quốc ngữ. Khi trở về Mỹ, anh bắt đầu tìm hiểu về niêm luật thi ca, tìm đọc những tác phẩm cổ điển Trung Hoa như Hán Thư, Đường Thi, Tống Từ, Tứ Thư, Đạo Đức Kinh, vân vân.

Xong trung học, anh theo học đại học Houston về Âm Nhạc và Văn Chương Anh. Trong thời gian này, anh tiếp tục đọc các tác phẩm cổ cũng như đồng thời sáng tác nhiều bài “từ” bằng chữ Hán, tất cả về sau gộp chung lại thành “Chướng Vân Tập.”

Sau khi tốt nghiệp đại học năm 2016, anh dọn về California, nghiên cứu thêm về Thần Học Công Giáo và Chính Thống Giáo. Ngoài ra cũng nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng Tống Nho, và đặc biệt nghiên cứu về một danh nho Việt Nam dưới thời Tự Đức là Nguyễn Đức Đạt.

Năm 2018, anh được học bổng của Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm về Hà Nội khoảng ba tháng, nghiên cứu thêm tại Viện Hán Nôm. Năm 2019 trở về Mỹ, nhân dịp Đại Học Columbia ở New York bắt đầu thành lập ngành Việt Nam Học, anh được nhận vào học chương trình tiến sĩ khoa Ngôn Ngữ và Văn Hóa Đông Á, đặc biệt nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của tư tưởng Việt Nam thời trung đại và cận đại.

Đánh giá về khả năng, nhà văn Nguyễn Văn Sâm nhận xét: “Đó là một khuôn mặt lạ của học giới, của người Mỹ gốc Việt trên nước Mỹ. Rồi em sẽ giải quyết được nhiều vấn đề còn tồn đọng trong văn chương Việt Nam và Trung Hoa. Chắc chắn như vậy.”

Một cây bút khác, Thiên Đồng, đi xa hơn, cho rằng: “Giữa thế giới non trẻ vô tư của thế hệ trẻ em được sinh ra và lớn lên trên đất Hoa Kỳ, đa số không còn nói được tiếng Việt thì bỗng xuất hiện đâu ra một cậu trẻ Nguyễn Thụy Đan với vốn liếng văn hóa Việt Nam thuộc tầng thông kim bác cổ như người xưa sống lại. Nguyễn Thụy Đan là hiện tượng kỳ lạ đến gần như chưa có tiền lệ trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.”

Không những nghiên cứu và sáng tác, Nguyễn Thụy Đan còn mở lớp dạy chữ Hán trên mạng. Một trong những người theo học, cô Nguyễn Thị Mai Quyên viết: “Học cổ văn vốn không đơn giản, lại học qua mạng, nên càng khó khăn hơn. (…) Đáng nói hơn, họ, có người trước khi đến với lớp học mới biết võ vẽ qua đôi chữ. Có kẻ thì ngoài niềm yêu thích, hoàn toàn chưa có một kiến thức nào về chữ Hán cổ hay Hán Ngữ hiện đại chưa nói đến cổ văn. Vậy mà trải qua 11 tuần học, bài hôm ấy (tức tuần thứ mười hai) chúng tôi đã cùng nhau trích đọc những đoạn văn của Hàn Phi Tử, Trang Tử…”

Phần thứ hai, “Viết Về Tác Phẩm Đầu Tay: Chướng Vân Tập” với sự góp mặt của Nguyễn Văn Sâm, Dương Nguyên Khang và Tô Thẩm Huy. “Chướng Vân Tập” là một tập gồm có 30 bài “từ” (1) do Nguyễn Thụy Đan sáng tác. Đó là “ba mươi tiếng than tuy khác điệu nhưng cùng tâm trạng, tựa như người buồn có thể thở dài, vuốt trán, nhăn mặt, miệng mếu, bứt tóc…,” theo Nguyễn Văn Sâm.

Còn theo Dương Nguyên Khang thì: “Nó là tiếng kêu của một nỗi sầu không cầm lại được, là tiếng trống mở màn của những dòng thơ hữu thanh, nhưng cũng là tiếng chuông chấm dứt của những nỗi buồn vô thanh chất chứa trong khuôn lòng chật hẹp.”

Phần thứ ba, dài nhất, “Thơ Văn Của Nguyễn Thụy Đan,” giới thiệu nhiều bài viết và trích đoạn từ các tác phẩm biên khảo, tiểu luận, dịch thuật và các sáng tác văn, thơ của Nguyễn Thụy Đan. Các bài viết này có cả chữ Hán, phiên âm Hán Việt và dịch nghĩa.

Về tiểu luận, xin giới thiệu một trích đoạn tiêu biểu trong bài “Mạn Đàm Về Quốc Học,” qua đó, Nguyễn Thụy Đan bày tỏ thẳng thắn quan điểm của mình về việc học: “Những năm gần đây, khi biết tôi sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ, từ bé đến lớn lại sống xa cộng đồng kiều bào, không ít người lấy làm kinh ngạc mà thắc mắc về lai lịch và quá trình học vấn của tôi. Cả đời tôi chưa từng lên lớp học tiếng Việt hay Hán văn theo chương trình chính quy của trường ốc. Người khác nghe vậy lấy làm lạ, nhưng đối với tôi lại thấy hết sức bình thường và cũng không có bất kỳ lý do nào để mặc cảm hay tiếc nuối đã không có dịp học Hán Nôm theo cái gọi là ‘chính quy.’ Vì, theo tôi, cứ lấy Nho gia làm ví dụ, vốn trong Luận Ngữ 論語 đã có xu hướng phản chính quy, tự tìm con đường cho riêng mình. (…) Kẻ học Nho chân chính, chẳng trông mong gì nơi nhà nước, nơi hệ thống giáo dục, thậm chí cũng không trông chờ gì nơi người thầy. (…) Nói theo lời Nguyễn Đức Đạt (1824-1887), danh nho đời Tự Đức, mở đầu Nam Sơn tùng thoại, “Học vấn chi đạo, sư sư bất như sư thư” (Đạo học vấn, học hỏi từ thầy chẳng bằng học hỏi từ sách). Cho nên, đúng nghĩa sự học, chỉ có thể tự học – những người sư hữu là những người đồng hành cùng mình, giúp chỉ đường cho mình, giúp góp vui cho mình bớt cô độc trên đường đi, nhưng còn tiếp bước hay không, đi đúng đường hay không, sự ấy ở tại mình mà thôi.”

Một quan điểm nghe lạ tai, nhưng suy đi ngẫm lại, theo tôi, là hoàn toàn chính xác.


(Bìa TQBT số 91, tháng 1/2021)

Về sáng tác, Nguyễn Thụy Đan sử dụng nhiều thể loại khác nhau: tản văn, tản mạn, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, hát nói… Thư Quán Bản Thảo cho biết, Nguyễn Thụy Đan sở trường về “Hát Nói,” một thể thơ thịnh hành ở nước ta vào thế kỷ XIX. Xin trích một bài tiêu biểu, “Vĩnh Phúc Đêm Mưa”:

“Đêm thu mưa gió đầy giời
Mộng tàn gối lạnh đâu người trong mơ
Đèn khuya khi tỏ lại mờ
Hắt hiu bao nỗi sầu xưa hận rày

Thê phong khổ vũ (2)
Chốn buồng không mất ngủ lại đêm nay
Đốt tương tư thắp đĩa dầu đầy
Trải mưa gió niềm tây dường dập tắt

Ngã thị nhân gian trù trướng khách
Tri quân hà sự lệ tung hoành (3)

Bạn giai nhân khó gặp đã đành
Biết nhau mới tiếc duyên lành dang dở
Quân tín phủ: Trường đoạn thiên nha tòng thử khứ
Nợ đa tình ôm giữ kín từ đây

Gìn vàng giữ ngọc cho hay.”

Nguyễn Thụy Đan cũng làm thơ “Song Thất Lục Bát.”
Bài sau đây có tựa đề là “Tọa Vong”:

“bờ tuyệt vọng tôi làm tượng đá
tháng năm trường đại hạ xuân thu
trên vai trải mấy dãi dầu
sau lưng ký ức một màu bạc phơ
tượng gục mình như xưa tôi đã
gục bên em trắng xõa chiều mưa
bàng hoàng từng trận gió đưa
lạnh tràn vang bóng thuở xưa làm người
miền quạnh vắng tuổi trời hóa thạch
tượng ngồi im quên sạch hôm qua
cỏ cây tươi héo quanh ta
tôi làm tượng đá ngự tòa phù sinh”

Nguyễn Thụy Đan cũng đã từng được đề cập trên nhật báo Người Việt cách đây bảy năm qua một bài phỏng vấn do phóng viên Thiên An thực hiện: “‘Lạc Lõng’ Cậu Nho Sinh Người Mỹ Gốc Việt.” (4) Trả lời cho câu hỏi: “Tại sao em lại thích học chữ Hán-Nôm?,” Nguyễn Thụy Đan nói: “Không học Hán-Nôm, không thể hiểu sâu về đất nước và con người Việt Nam. Sống ở hải ngoại mà không muốn bị mất gốc, ắt phải hiểu biết văn hóa quê cha đất tổ.”

Được hỏi: “Em sử dụng chữ Hán-Nôm vào việc gì?,” Đan cho biết: “Em học chữ Hán cốt để đọc sách người xưa. Văn liệu nước ta từ đầu thế kỷ XX về trước phần lớn viết bằng văn Hán hoặc văn Nôm. Không biết Hán-Nôm, ắt phải dựa vào bản dịch hoặc bản phiên âm của người khác mà đọc. Song, sách vở vẫn có nhiều loại. Đọc sách thánh hiền để học đạo làm người. Đọc sách sử để biết thêm về văn hóa, lịch sử người Việt. Đọc văn thơ để tiêu sầu khiển muộn… Sau này em quen vài người ngoại quốc cũng quan tâm văn chương và lịch sử nước Việt nên em mới bắt đầu dịch văn liệu Hán-Nôm sang tiếng Anh. Có khi em viết thơ từ, gọi là cái thú tao nhã vậy.”


Trần Doãn Nho

Chú thích:

(1) “Từ” là một thể thơ gắn chặt với âm nhạc, dựa vào nhạc mà đặt lời, lời lẽ hoa lệ.
(2) Gió buốt mưa sầu (Nguyễn Thụy Đan)
(3) Ta là khách buồn bã trong cõi nhân gian/Cớ sao quen biết người lại khiến nước mắt chảy ròng rã (Nguyễn Thụy Đan)
(4) Người Việt, 15/8/2014: www.nguoi-viet.com/little-saigon/Lac-long-cau-nho-sinh-nguoi-My-goc-Viet-1433/

Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/nguyen-thuy-dan-mot-khuon-mat-doc-dao-cua-van-chuong-hai-ngoai/

Nguyễn Thụy Đan và bầu trời cổ thi ở New York

Nguyễn Thị Bích Hậu

(Nguyễn Thụy Đan – 27 tuổi)

Một buổi sáng, tôi tình cờ biết Nguyễn Thụy Đan, một chàng thanh niên 27 tuổi, người Mỹ gốc Việt đang học tiến sĩ tại Đại học đường Columbia danh giá. Ngành anh học là Ngôn Ngữ và Văn Hóa Đông Á, đặc biệt nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của tư tưởng Việt Nam thời trung đại và cận đại. Anh là một trong số ít nhà nghiên cứu trẻ dũng cảm bước vào ngành khoa học này. Nhưng Nguyễn Thụy Đan còn là bất ngờ lớn. Anh là một thi nhân tài hoa làm thơ cả bằng Việt ngữ và cổ văn Hán-Nôm, cho dù anh hoàn toàn sinh ra trên đất Mỹ, tại vùng Sacramento, tiểu bang California.

Đây là một bài thơ Việt ngữ của anh:

Thu kia đổ mấy hạt mưa
làm sao đánh giá cho vừa đau thương
này tôi thi khách họ vương
chôn vùi nam hải trên đường tìm cha
soi từng trang giấy bạc nhòa
bên tai chưa dứt cuồng ca muôn đời
đập gương tìm bóng con người
giật mình chỉ thấy một trời cô đơn

Tâm sự với tôi, Nguyễn Thụy Đan cho biết anh học tiếng Việt ở nhà cùng gia đình. Là con của một gia đình Công giáo toàn tòng gốc Nghệ An và Hà Tĩnh (quê cha, và Nam Định – quê mẹ), anh kể: “Ngay từ khi còn nhỏ, tôi lãnh trách nhiệm đọc sách Đạo, đọc thơ từ bằng Việt ngữ cho bà. Là vì bà sinh năm 1920 và không biết chữ nên tôi chính là người giúp bà gần hơn với thế giới của tâm linh và thơ ca.Năm 13 tuổi, tôi theo cha mẹ về thăm cố quốc và đi đủ ba miền yêu dấu. Về Hà Nội, bỗng dưng tôi rất muốn học chữ Nôm. Nhưng không tìm ra thầy dạy, cha mẹ chiều lòng tôi liền mua một cuốn từ điển chữ Nôm để tôi tự học”.

Ba năm sau, Đan theo tổ chức thiện nguyện của Công giáo về Củ Chi, TP.HCM đi dạy tiếng Anh và tranh thủ học tiếng Việt. Chàng thiếu niên 16 tuổi một bữa nọ chợt nghe thấy cô thiếu nữ 15 tuổi ở Việt Nam đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan. Và những vần thơ “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà…”, “Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” bỗng khai mở cho Đan một thế giới khác. Đan nói: “Nó thôi thúc tôi làm thơ”.

Sau ba tháng, trở lại Mỹ, anh bắt đầu nghiên cứu về cổ thi và văn chương Trung Hoa. Thế giới tuyệt vời và huyền ảo đó diễn ra ngay trong căn nhà của Đan tại vùng rừng núi Bắc tiểu bang Cali xinh đẹp. Nào Sở Từ, Tống Thi, Đường Thi, nào thơ Nguyễn Du, nào thơ tiền chiến của Bích Khê, Hàn Mặc Tử và Phạm Hầu. Và bắt đầu làm thơ.

18 tuổi, Đan gặp khủng hoảng tinh thần khi bà ngoại mất. Nỗi đau của tuổi trẻ càng làm cho Đan muốn tìm sự chia sẻ và chữa lành từ thi ca. Anh tiết lộ: “Đó là thời điểm tôi học Hán ngữ rất mau. Là vì tôi nhớ lại rằng bà hay kể trong nhà xưa có nhiều Nho sĩ”. Không chỉ là văn chương cổ Việt Nam, Trung Hoa, mà còn cả triết học thấm đẫm qua Trang – Lão – Khổng. Và sau khi tốt nghiệp trung học, có ý đi ẩn tu xuất thế nhưng không thành, Đan thi vào Houston University để học song bằng về Biểu diễn âm nhạc (Piano, Clavecin, Organ nhà thờ) và Văn chương Anh. Đây là thời gian song song Đan nghiên cứu sâu hơn về văn chương cổ Việt Nam, Trung Hoa và làm nhiều bài từ bằng Hán ngữ.

Tốt nghiệp đại học, chàng trai quay về Cali, nghiên cứu sâu về tôn giáo, triết học phương Tây và phương Đông, trong đó có nghiên cứu về Nguyễn Đức Đạt, một nhà nho thời vua Tự Đức. Đan quay lại Hà Nội ba tháng nghiên cứu tại Viện Hán Nôm bằng học bổng. Sau đó năm 2019 nhận học bổng tiến sĩ tại Đại học đường Columbia. Vì đây cũng là năm trường này mở ngành Việt Nam học.

Nguyễn Thụy Đan có các nghiên cứu và bản dịch công phu các bài thơ xưa, các tài liệu Hán-Nôm cổ của dân tộc. Nhưng bên cạnh đó làm thơ rất hay, đượm hương vị cổ thi, ngay cả khi anh chàng rất trẻ và sống ở New York. Ví dụ như bài thơ sau:

đây ngũ quận chiều trời nữu ước
nhịp tàu ga lộn bước lưu lang
đá cây hỏi tuổi hoang mang
ngỡ ngàng ngõ ngách phố phường nắng phai

(nữu ước. tháng 2. cùng trần hoài thư)

bờ tuyệt vọng ta làm tượng đá
tháng năm trường đại tạ xuân thu
trên vai trải mấy dãi dầu
sau lưng ký ức một màu bạc phơ
tượng gục mình như xưa ta đã
gục bên em trắng xõa chiều mưa
bàng hoàng từng trận gió đưa
lạnh tràn vang bóng thuở xưa làm người
miền quạnh vắng tuổi trời hóa thạch
tượng ngồi im quên sạch hôm qua
cỏ cây tươi héo chiều tà
ta làm tượng đá ngự tòa phù sinh

(tọa vong)

Nhưng không đơn giản như vậy, Nguyễn Thụy Đan là cả một thế giới cần khám phá bình tĩnh với đủ thời gian. Là vì chàng trai trẻ này rất thạo lẩy Kiều, làm thơ theo thể hát nói (thường thấy trong hát Ả Đào), làm thơ Hán ngữ và viết các bài Từ theo thể loại Từ Tống rất hay và chuẩn chỉnh.

Ví dụ như một bài thơ trong thể hát nói như sau của anh:

Vĩnh Phúc đêm mưa

Đêm thu mưa gió đầy giời,
Mộng tàn gối lạnh đâu người trong mơ.
Đèn khuya khi tỏ lại mờ,
Hắt hiu bao nỗi sầu xưa hận rày,

Thê phong khổ vũ 1

Chốn buồng không mất ngủ lại đêm nay.
Đốt tương tư thắp đĩa dầu đầy,2
Trải mưa gió niềm tây dường dập tắt.
Ngã thị nhân gian trù trướng khách,
Tri quân hà sự lệ tung hoành.3
Bạn giai nhân khó gặp đã đành,
Biết nhau mới tiếc duyên lành dang dở.

Quân tín phủ: Trường đoạn thiên nha tòng thử khứ,4

Nợ đa tình ôm giữ kín từ đây.
Gìn vàng giữ ngọc cho hay.

(xem chú thích)

Trong khi làm thơ theo lối hiện đại, Đan cũng có khả năng gây bất ngờ

từng đêm. từng đêm. lập lòe đèn phố
anh đã đi ngang. anh vẫn đi ngang. nguyện thề
từng nhịp lê bước. anh sẽ một lần thổ lộ
cùng em. nơi đây. chín rộ quán khuya. anh làm
bóng ma. tàng hình. từng đêm
lơ lớ gọi-một-ly-bạc-xỉu-đá. uống chỉ để nghe vơi
nỗi thèm khát môi em.
một mai. bằng ta còn có nhau
anh sẽ đưa em qua
những miền mặc khải
vì sao anh điên
vì sao anh dại
vì sao anh liệt
vì sao anh đui
vì sao anh điếc
vì sao anh câm
vì sao sáng ra soi gương anh ngán ngẩm
mặt mày lem-luốc-khốn-nạn-chó-đẻ chưa một lần hiên ngang
nhìn thẳng người ta

Có nhiều hy vọng ở Nguyễn Thụy Đan, một thi sĩ, và một nhà khoa học trẻ có thể đóng góp nhiều cho văn hóa dân tộc.

[1] Dịch nghĩa: “Gió buốt mưa sầu”.

[2] Mượn ý ca dao: “Đêm khuya thđĩa dđầy/ Hc hành thì ít, su tây thì nhiều”.

[3] Dịch nghĩa: “Ta là khách buồn bã trong cõi nhân gian/ Cớ sao quen biết người lại khiến nước mắt chảy ròng rã?”. Trích bài từ theo điệu Hoán khê sa của Nạp Lan Tính Đức (1655-1685), danh gia người Mãn Châu thời Thanh sơ.

[4] Dịch nghĩa: “Người tin chăng, đứt ruột chân trời từ đây trở đi”. Câu “Trường đoạn thiên nha…” trích từ bài từ theo điệu Lãng đào sa của Cố Thái Thanh (1799 – 1877), nữ danh gia người Mãn Châu thời Thanh.

………………………………..

Một số bài thơ của Nguyễn Thụy Đan

Bài 1

victorville tháng 6. gặp nguyễn văn sâm


dạ đàm giai thị nam trung thoại
tương đối hồn vong khách lý nhân
phan thanh giản
con đến thăm thầy. trời tháng sáu
nắng cali đốt cháy không gian
êm đềm. một buổi ngồi cười mỉm
thầy kể. con nghe. chuyện nước nam
quê con đâu đó. miền hoan diễn
vạn cổ mông lung cõi việt thường
con biết quê con qua sử sách
chắt chiu từng chữ. nén đau thương
đồng bào lạ lắm. tiên sanh nhỉ.
chưa hiểu chi nhau. đã vội khinh.
ai thấu. bên này buồn đến thế
còn gì tiêu khiển. chí bình sinh.
hăm bảy năm trời. con sống gửi
nơi đây. lạc cả giọng quê xưa
lâu dần quen với đời im lặng
để mặc tàn phai những ước mơ
thầy cùng con. một bữa sang sảng
nói. lại thôi. trùng điệp nỗi đau.
kẻ bắc. người nam. lìa cố quốc
chân trời. ai ngỡ hãy còn nhau.
dường như. thầy hiểu lòng con đó
nhẹ bẫng. trăm năm trắng thoáng mây.
chỉ biết tìm quên miền chữ nghĩa
đôi khi. nghe tạm xót xa khuây.

02.06.2021

Bài 2

folsom. tháng 5. ở một nơi ta đã đi qua.

sắt se ngọn gió. chiều nay
võ vàng. nhung nhớ. tháng ngày héo hon
đi. về. hun hút cô đơn
đài rè nghe thoảng điệu đờn ngày xưa
dường như. giữa nỗi bơ vơ.|
âm thầm sâu thẳm mịt mờ còn vương.
chiều nay. mắt nhắm. tay buông.
xót xa lẩn bóng tà dương. cuối trời.
chiều nay. phó thác tay người.
tình khiên hoang dại. mộng đời nát tan.
chiều nay. khóc giữa mê man.
tủi hờn tê điếng ngập tràn mi cay.
sắt se ngọn gió. chiều nay
bóng ai như gió tiễn ngày vào đêm.

03.05.2021

Bài 3

Tự thuật

Vào núi năm tròn ngày một cuồng,
Học hành sự nghiệp thảy đều buông.
Liếc nhìn thằng tục nửa con mắt,
Cười nhạt tình đời mấy tấn tuồng.
Nghĩa bạn nào hay thua khách đĩ,
Lòng người chửa chắc kịp chim muông.
Nguồn cơn nghĩ đến thêm ngao ngán,
Quạnh quẽ non không đóng cửa buồng.

03.04.2021 –

4/6/2021Nguyễn Thị Bích Hậu

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *