trang bạn hữu – thơ Tô Thùy Yên

      

 (Để tưởng nhớ anh Đinh Thành Tiên (Tô Thùy Yên), người bạn cùng tù
một thời thân thiết, qua đời ngày 21.5.2019 tại Houston, Texas – Hoa Kỳ)

 

THÁNG CHẠP BUỒN

Tết này con vẫn chưa về được
Chân mỏi còn lê nặng kiếp tù
Con nghĩ mà đau muôn nỗi nhớ
Tám năm lòng bạc những thiên thu

Tám năm những tưởng là vô tận
Rồi cũng qua như tiếng rụng rời …
Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn
Nghe chừng gãy những cánh chim bay

Con đi đã mấy miền Nam Bắc
Ðâu cũng thì đau đớn giống nòi
Con khóc hồn tan thành nước mắt
Lâu rồi trời đất hết ban mai

Tuổi con đã quá thời nghi hoặc
Sao vẫn như người đi giữa đêm
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Con vá chồng lên những nỗi niềm

Con nhớ cội mai già trước ngõ
Xuân này có gắng gượng ra hoa
Xót xa thế, thiết tha là thế
Ðời mất đi từng mảng thịt da

Căn nhà đã có thời gian ngụ
Bụi mọt rơi và ngọn gió qua
Thăm thẳm nghìn đêm chong mắt đợi
Ai trầm luân đó đã về chưa ?

Con nhớ khu vườn sau vắng lạnh
Mỗi cây làm chứng một thâm tình
Quây quần bên mẹ cha buồn bã
Như một phần con đứng lặng thinh

Tám năm con thức ngàn đêm trắng
Mơ sáng ngày mai đời đổi thay
Con nắm tay mình trong bóng tối
Hiểu rằng sống được cũng là may

Tám năm con giấu trong tâm tưởng
Thanh kiếm giang hồ thuở thiếu niên
Mà đợi ngày mai trời trở giấc
Ðem thân làm trận lốc kinh thiên

Tết này con vẫn chưa về được
Sông núi còn ngăn những tấm lòng
Nên đành lấy nhớ thương mừng tuổi
Cha mẹ già như trúc trổ bông

* * *

Tết này anh vẫn chưa về được
Chắc hẳn em buồn như cỏ thu
Ngọn gió mùa xưa hiu hắt thổi
Dòng đời nghe lạnh nỗi thờ ơ

Tám năm hiu quạnh vang mòn mỏi
Những tiếng vang từ mỗi nhịp tim
Những tiếng vang sâu từ cõi chết
Qua ngàn lớp cửa nặng nề im

Con sông nước chảy đôi miền nhớ
Biền biệt trôi, ngày một một xa
Còn gọi nhau qua từng giấc mộng
Bàng hoàng như một cánh chim sa

Trong ấy mùa xuân có đến không ?
Mùa xuân hoa nở má em hồng
Mùa xuân áo mới như hy vọng
Nắng mật ngời lên ánh mắt trong

Ở đây có lẽ xuân không đến
Rừng núi chưa tan giấc não nề
Thương nhớ tràn như con lũ máu
Lòng anh đã vỡ những con đê

Lòng anh đau nỗi quê hương mất
Ðời bỏ đi chưa hả nhục nhằn
Có chết cũng thành ma vất vưởng
Ðêm về thương khóc nhớ quê hương

Anh nhớ con đường em vẫn đi
Cỏ hoa bối rối gọi nhau về
Thời gian có ngủ mê từ đó
Nhan sắc bây giờ có ủ ê ?

Anh nhớ bao điều tưởng đã quên
Tình xưa như nước chảy trăm miền
Tình xưa như hạt cây khô rụng
Từ những mùa xa lá phủ lên

Anh nhớ làm sao mà chẳng nhớ
Căn nhà ấm tiếng nói thân thương
Căn nhà như giấc chiêm bao biếc
Có ánh trăng và hương dạ lan

Làm sao em chẳng buồn cho được
Tám độ mai rơi hết mộng vàng
Mái tóc ủ thời con gái cũ
Bây giờ e cũng đã phai hương

Tết này anh vẫn chưa về được
Lau sậy già thêm một tuổi xuân
Còn nhớ thương ai miền gió cát
Bao giờ mới dứt được trầm luân !

* * *

Tết này cha vẫn chưa về được
Chắc hẳn con buồn cạn tuổi thơ
Từ buổi cha đi, nhà tróc nóc
Tuổi thơ thôi cũng nhuốm bơ phờ

Từ buổi cha đi đời lặng lẽ
Mắt nai héo đỏ nỗi mong chờ
Mỗi lần có khách đi vào ngõ
Con bỏ vui đùa đứng ngẩn ngơ

Con sáo trong lòng con đã chết
Bé ơi sao bé mãi đi tìm
Con kêu lạc giọng ơi… ơi… sáo
Rồi khóc trong chiều muộn nhá nhem

Tám năm mưa gió qua rền rĩ
Chim nhỏ không còn vui líu lo
Ngơ ngác tuổi thơ người lớn sớm
Nhìn đâu cũng chỉ thấy bơ vơ

Ðã tám năm rồi con bỏ học
Cuộc đời như một bát cơm thiu
Mỗi lần có phải qua trường cũ
Con bước nhanh vì sợ bạn kêu

Lần hồi rau cháo mẹ nuôi con
Con lớn lên theo vạn nỗi buồn
Mơ ước ngày sau làm tráng sĩ
Ðem thân vào những chốn đau thương

Ngày sau con dựng ngôi nhà lớn
Trồng lại tình thương dọc nẻo đời
Tạc lại con người khôi việt đẹp
Làm nên thế giới mới tinh khôi

Cha thương con biết bao mà kể
Ôi mắt nhung reo ánh nỗi niềm
Mái tóc tơ hồng hương nắng hạ
Tuổi thơ mùi sách mới lâng lâng

Xa con cha thấy buồn vô hạn
Như mất thêm lần nữa tuổi thơ
Cha tiếc không cùng con sống lại
Ngày vui cha vẫn giấu trong mơ

Ôi cánh diều băng mùa hạ cũ
Xương tàn còn đọng ngọn tre cao
Ðến nay trời nổi bao lần gió
Con tưởng oan hồn vật vã đau

Tết này cha vẫn chưa về được
Ðành hẹn cùng con tết khác thôi
Con nhớ để dành cây pháo cũ
Ðể dành một chút tuổi thơ vui.

Tô Thùy Yên

           Ta Về                

Ta về một bóng trên đường lớn 
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai 
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ 
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay 

Vĩnh biệt ta – mười năm chết dấp 
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu 
Mười năm mặt sạm soi khe nước 
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ 

Ta về qua những truông cùng phá 
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may 
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ 
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín 
Đời im lìm đóng váng xanh xao 
Mười năm, thế giới già trông thấy 
Đất bạc màu đi, đất bạc màu 

Ta về như bóng chim qua trễ 
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa 
Ai đứng trông vời mây nước đó 
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ 

Một đời được mấy điều mong ước 
Núi lở sông bồi đã mấy khi 
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động 
Mười năm, cổ lục đã ai ghi 

Ta về cúi mái đầu sương điểm 
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời 
Cảm ơn hoa đã vì ta nở 
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi 

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa 
Làng ta ngựa đá đã qua sông 
Người đi như cá theo con nước 
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng 

Ta về như lá rơi về cội 
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay 
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống 
Giải oan cho cuộc biển dâu này 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy 
Ruột mềm như đá dưới chân ta 
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó 
Người thức mong buồn tận cõi xa 

Ta về như hạt sương trên cỏ 
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời 
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt 
Tội tình chi lắm nữa người ơi 

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ 
Mười năm người tỏ mặt nhau đây 
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi 
Đành uống lưng thôi bát nước mời 

Ta về như sợi tơ trời trắng 
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh 
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng 
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can 

Lời thề buổi ấy còn mang nặng 
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra 
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ 
Mười năm ta vẫn cứ là ta 

Ta về như tứ thơ xiêu tán 
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên 
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách 
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền 

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ 
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ 
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ 
Khách cũ không còn, khách mới thưa 

Ta về khai giải bùa thiêng yểm 
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi 
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ 
Một lần kể lại để rồi thôi 

Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn 
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà 
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? 
Mười năm, cây có nhớ người xa? 

Ta về như đứa con phung phá 
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu 
Mười năm, con đã già trông thấy 
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu 

Con gẫm lại đời con thất bát 
Hứa trăm điều một chẳng làm nên 
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn 
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên 

Ta về như tiếng kêu đồng vọng 
Rau mác lên bờ đã trổ bông 
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng 
Chờ anh như biển vẫn chờ sông 

Ta gọi thời gian sau cánh cửa 
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu 
Ta nghe như máu ân tình chảy 
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau 

Ta về dẫu phải đi chân đất 
Khắp thế gian này để gặp em 
Đau khổ riêng gì nơi gió cát 
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm 

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa 
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà 
Tình xưa như tuổi già không ngủ 
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa 

Ta về như giấc mơ thần bí 
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui 
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng 
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi 

Bé ơi, này những vui buồn cũ 
Hãy sống, đương đầu với lãng quên 
Con dế vẫn là con dế ấy 
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen 

Ta về như nước Tào Khê chảy 
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ 
Thân thích những ai giờ đã khuất 
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa 

Người chết đưa ta cùng xuống mộ 
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao 
Khóc người ta khóc ta rơi rụng 
Tuổi hạc ôi ngày một một hao 

Ta về như bóng ma hờn tủi 
Lục lại thời gian kiếm chính mình 
Ta nhặt mà thương từng phế liệu 
Như từng hài cốt sắp vô danh 

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa 
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời 
Ai đó trong hồn ta thổn thức 
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi 

Ta về như hạc vàng thương nhớ 
Một thủa trần gian bay lướt qua 
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn 
Đành không trải hết được lòng ta

Tô Thùy Yên

Thế giới vui vì mỗi lẻ loi (Ta Về – Tô Thùy Yên)

 Đỗ Thái Nhiên

Tô Thùy Yên 2015

Có suy nghĩ cho rằng sống tức là quay cuồng trong bể khổ. Suy nghĩ khác lại đặt thành câu hỏi: Đời người từ đâu đến? Đi về đâu? Nhà thơ Bùi Giáng buông lời giải đáp nhẹ nhàng nhưng bất ngờ và bay bổng:

Ấy là nhạc ? Ấy là thơ ?

Ấy là rượu đế một giờ bỗng dưng ?

Ấy điên đảo ? Ấy điệp trùng ?

Ấy từ vô tận lừng khừng mà ra

                           (Thơ Bùi Giáng)

Cõi “ vô tận lừng khừng” là cõi nào? Đây là nơi hàm chứa mọi quấn quyện và tương tác miên viễn giữa tự nhiên giới, tư tưởng giới và xã hội giới. Sự quấn quyện tương tác này sản sinh ra vận động của dòng sống người, vận động của lịch sử. Trong tự nhiên, nhịp điệu của lịch sử được ghi nhận.

 Tô Thùy Yên, tên thật là Đinh Thành Tiên, sanh ngày 20/10/1938 tại Gò Vấp, nguyên Thiếu Tá Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30/04/1975 Tô Thùy Yên bị chế độ CSVN tống giam không tội danh, không  án tòa.

Năm 1985 Nhà Thơ ra khỏi nhà tù, thi phẩm Ta Về được sáng tác vào dịp này. Năm 1993 Ông cùng gia đình tị nạn chính trị tại Houston, Texas, Hoa Kỳ.

Vẫn tại Houston, ngày 21/05/2019, Đinh Thành Tiên về nơi Tiên cảnh.

BẢN THỂ LUẬN CỦA BÀI THƠ “TA VỀ” 

Nhà Thơ Tô Thùy Yên, một người tù, không tội. Nhà cầm quyền các loại hoàn toàn vô thẩm quyền trong quyết định ân xá đối với nhân vật  này. Vì vậy, lịch sử đã hóa thân thành “tiếng biển lời rừng” để chấp cánh cho Tô Thùy Yên vượt thoát cảnh giam cầm phi lý và cô nghiệt:

Tiếng biển lời rừng nao nức giục

Ta về cho kịp độ xuân sang

                          (Ta Về – Tô Thùy Yên)

Hai câu thơ vừa trích dẫn là lời mở đầu của bài Ta Về. Bằng mở đầu này, Tô Thùy Yên mạnh mẽ xác định: ông rời bỏ nhà tù theo những chuyển biến của lịch sử thế giới chứ không hề do “lòng nhân đạo” của đảng thống trị độc tài. Xác định kia mở ra quan điểm rằng “Ta Về” là tiếng nói hiên ngang và khách quan của một người sau “mười năm chết dấp” vẫn bảo tồn trọn vẹn phẩm chất cao quý của  nhân văn. Đây là lý do giải thích tại sao sách báo của Cộng Sản Việt Nam trong nước khi phổ biến bài Ta Về đã lặng lẽ cắt bỏ hai câu thơ đáng giá ngàn vàng của Tô tiên sinh. Từ đó trong và ngoài nước khi bình luận về “Ta Về”, một số tác giả đã “quên đi” lời thơ mở đầu kia. Tại hải ngoại, nguyên văn bài Ta Về được tìm thấy trên địa chỉ:

https://www.thivien.net/T%C3%B4-Thu%E1%BB%B3-Y%C3%AAn/Ta-v%E1%BB%81/poem-fxCCFn0pRiRvduZHEmZWEw

(Tô Thuỳ Yên, Thơ tuyển, Minnesota, 1995)

Bây giờ, chúng ta hãy trở lại với Tô Thùy Yên vào những giờ phút đầu tiên khi người tù khổ sai rời khỏi cánh cửa đen ngòm nơi ngục thất. Trước hết, nhà thơ ngỡ ngàng đối diện với chân dung của  chính mình:

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp

Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu

Mười năm, mặt xạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ 

Nhân quyền chẳng là gì khác hơn là quyền của mỗi Con Người được sống đúng với chân lý: thời gian nào phải gắn bó với không gian đó. Một người ở vào thời gian ngoài sáu mươi tuổi phải được sống  trong không gian nghỉ hưu. “Thời, không nhất phiến” là vậy. Thời gian là cuối thế kỷ 20, hàng trăm ngàn cựu quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng sản Việt Nam đẩy về sống với không gian “vượn cổ sơ”. Đây là tội ác hiểm độc hàng đầu trong thế giới của các loại tội ác.

Tuy bị cưởng bách sống kiếp vượn cổ sơ, tập thể người đã từng hấp thụ trọn vẹn nền-giáo-dục-nhân-văn-của-Miền-Nam-Việt-Nam-trước-1975 vẫn duy trì được bản chất cao cả của nhân tính. Tính Người bao gồm bốn yếu tính: ái tình trung thành, kinh tế tính bình đẳng, tự vệ tính chánh đáng, xã hội tính hạch tâm. Trong bốn yếu tính kia ái tình là tính trội yếu. Nó giúp cho ba yếu tính còn lại tồn tại, phát triển và ổn định. Vì vậy khi tình yêu, tình gia đình bị “mười năm chết dấp” làm cho tan tác, đời sống của người tù trở nên kiệt quệ toàn diện.

Người tù và người yêu dấu của tù phải sống biệt ly bởi cánh cửa ngăn cấm mọi liên lạc tin yêu và bởi thời gian chờ đợi dài bất tận trong vô vọng. Chính cuộc chờ đợi vô vọng và bất tận này đã làm cho thời gian kể như đã chết. Ngày xưa người chinh phụ tan biến trong khối đá vọng phu, ngày nay người vợ tù tan biến trong thời gian đã chết. Nói ngắn gọn, Nàng chính là thời gian:

Ta gọi thời gian sau cánh cửa

Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu

Ta nghe như máu ân tình chảy

Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau 

Khi Ta Về, những cặp phu thê không còn lạc nhau. Thế nhưng, giữa đồng bào với đồng bào, những chuyến lạc nhau vẫn kéo dài miên viễn. Quê hương cũ vật đổi sao dời, lòng người phân cách bởi dòng sông ly tán.

Bên này sông là những người thấm nhuần văn hóa nhân văn của xã hội Miền Nam trước kia, họ là “khách cũ”. Khách cũ nay không còn. Họ đã trở thành “thân chủ” của các trại tù khổ sai dưới tên gọi “học tập cải tạo”

Bên kia sông là những người bị nhào nặn bởi guồng máy tuyên truyền nhồi sọ của chế độ cộng sản hà khắc và tham ô, họ là “khách mới”. Khách mới tuy khá đông nhưng xa lạ đối với văn hóa truyền thống của Việt tộc. Từ đó, khách mới đông-nhưng-thưa:

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ

Nhà thương khó quá, sống thờ ơ

Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ

Khách cũ không còn, khách mới thưa… 

Mỗi người là một ”vượn cổ sơ”. Mỗi gia đình là một “thời gian sau cánh cửa”. Quê hương là bức tranh ghi nhận những đôi mắt nhìn nhau xa lạ giữa “khách cũ” và “khách mới”. Vũ trụ, nhân sinh và xã hội là một khối quấn quyện bất tuyệt. Tô Thùy Yên đã tinh vi viết lại lời-chia-buồn-không-tiếng-nói của vũ trụ dành cho nhân gian bằng cách mô tả một Đất Trời tê tái ôm lấy Quê Hương khốn khổ:

Ta về qua những truông cùng phá

Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín

Đời im lìm đóng váng xanh xao

Mười năm thế giới già trông thấy

Đất bạc màu đi, đất bạc màu… 

NHẬN THỨC LUẬN CỦA “TA VỀ”

“Trời câm đất nín” là ảnh chụp của tình huống lịch sử bị đẩy vào thế cùng. “Cùng tắc biến. Biến tắc thông”. Thế nhưng, từ “cùng” chuyển thành “biến”, lịch sử phải được giục giã bởi môt mệnh lệnh xoáy tim gan. Mệnh lệnh kia chính là hồn sử. Hồn sử là sức mạnh đòi hỏi mối quan hệ giữa Nhân với Dân phải được thường hằng gắn bó. Mỗi người là một Nhân Dân. Nhân là người toàn thiện toàn mỹ. Khi đi vào thực-tiễn-xã-hội, Nhân biến thành Dân. Nhân là con người  tĩnh. Dân là con người động. Tĩnh là gốc của động.  Những hoạt động không thích nghi trên các địa bàn kinh tế, văn hóa, chính trị, lịch sử làm cho Dân bị xa rời Nhân… Trước mỗi xa rời ấy Dân đều tìm về Nhân để xin chỉ đạo, để nghe tiếng nói của lương tâm, để thể hiện Nhân trong đời sống. Quyết tâm thể hiện Nhân là vàng, xa rời Nhân là đá. Sau “mười năm chết dấp”, “ta vẫn là ta”, ta vẫn là Nhân. Hãy nghe tâm tình sâu lắng của Tô Thùy Yên:

Ta về như sợi tơ trời trắng

Chấp chới trôi buồn với nắng hanh

Ai gọi, ai đi ngoài cõi vắng?

Phải, ôi vàng đá nhắn quan san? 

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra

Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ

Mười năm, ta vẫn cứ là ta 

Đàng sau nhóm chữ “ta vẫn cứ là ta” là những năm dài đập-đá-phá-rừng với cái dạ dày xẹp lép. Là những chiều mưa chôn xác chiến hữu giữa núi rừng âm u. Là những đêm đen không tiếng động, ngoại trừ âm thanh phát ra từ nhịp đập của trái tim. Trái tim ăm ắp nhớ thương: bạn bè, người tình, gia đình, quê hương…

Thế rồi, những tháng năm khổ nạn qua đi, mọi oan khiên mờ dần, còn lại một nỗi niềm rực sáng. Nỗi niềm rằng: gian mưu buộc tù sống khổ sai nhằm đẩy người tù rơi vào tình huống phải xa rời chữ Nhân, phải qui hàng ác quỷ, phải bán đứng đồng đội, phải phản bội tổ quốc. Thế nhưng máu cứ chảy, ruột vẫn ngạo nghễ cứng như đá. Chính đời đã mở đường cho máu chảy, lại cũng chính đời đã giúp cho ruột không hề mềm, giúp cho Dân vẫn tha thiết tìm về Nhân. Rơi vào cảnh sống kỳ lạ đến cô nghiệt vừa kể, tâm tình của Tô Thùy Yên đã vỡ tung thành tiếng khóc tạ ơn đời:

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta

Mười năm chớp bể mưa nguồn đó

Người thức nghe buồn tận cõi xa   

Không còn nghi ngờ gì nữa, lịch sử là lịch sử của mọi suy nghĩ và hành động nhằm bảo vệ và phát triển dòng sống người, dòng sống giúp cho Dân dễ dàng tìm về Nhân, đề cao Nhân. Tất cả những gì chà đạp nhân cách đều bị loài người phản kháng, lực phản kháng này làm cho lịch sử chuyển động.

Trong các thập niên qua nhà nước độc tài chuyên chế Việt Nam giam cầm nhân-dân-bị-thống-trị thông qua ba biện pháp:

– Một là cài đặt điều kiện sống để người dân chỉ biết miệt mài chạy theo cơm áo.

– Hai là giáo dục nhồi sọ nhằm tẩy xóa ước vọng nhân quyền trong mỗi Nhân Dân.

– Ba là triệt tiêu mọi mầm mống chống đối ngay trong trứng nước.

Từ đó “lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động”

Một đời được mấy điều mong ước

Núi lở sông bồi đã lắm khi…

Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động

Mười năm cổ lục đã ai ghi?    

PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA “TA VỀ”

Lịch sử là sự chuyển mình của xã hội nhằm chống lại mọi chế độ cai trị chà đạp quyền làm người của người dân. Tô Thùy Yên tế nhị hối thúc lịch sử quê hương Việt hãy vươn mình đứng dậy bằng cách lôi kéo gỗ đá ra khỏi giấc ngủ triền miên:

Ta về khai giảng bùa thiêng yểm

Thức dậy đi nào gỗ đá ơi!

Hãy kể lại mười năm mộng dữ

Một lần kể lại để rồi thôi

“Một lần kể lại để rồi thôi” không có nghĩa là bỏ qua chuyện cũ, lại càng không có nghĩa là hòa hợp hòa giải với bạo quyền. Lời thơ này hàm ý rằng: Đau khổ không thể được giải trừ bằng những kể lể dông dài. Hãy một lần nói cho nhau nghe những nỗi niềm đau đớn của Việt Nam để sau đó lấy đau đớn kia làm bàn đạp đẩy tới hành động phục vụ quê hương. Phục vụ ở đây không thể bị đồng hóa với tâm lý thù hận. Nó là nghĩa vụ bảo vệ và khai thông lịch sử.

Có khi lịch sử chuyển mình bằng một cuộc cách mạng núi xương, sông máu. Lại có những khi: Sau 1975, lịch sử Việt Nam chuyển mình không tiếng động mặc dầu hàng triệu triệu sinh linh đã hy sinh trong rừng sâu hay ngoài biển rộng. Mỗi chuyển mình của lịch sử trên núi, trên sông hay trên biển, tất cả đều được người đời tôn kính ghi nhận là lịch sử đã nở hoa: Hoa sử. Sự thể này dẫn đến ý thơ của Tô Thùy Yên: “Cảm ơn hoa đã vì ta nở” . Ta ở đây vừa là Tô Thùy Yên, vừa là biểu tượng của một con người nói chung. Mặt khác, cuộc vượt biên 1975 của người Việt là một cuộc bầu cử bằng chân. Mỗi người vượt biên là một cử tri. Cử tri này bầu phiếu trong môi trường hoàn toàn kín, tự nguyện và lẻ loi. Sau cùng, hàng triệu triệu hành động lẻ loi đã tạo thành cuộc cách-mạng-vượt-biên bi hùng được thế giới khâm phục: Thế giới vui vì mỗi lẻ loi:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui vì mỗi lẻ loi 

Hoa sử đã bừng nở, vô số “mỗi lẻ loi” đã hội tụ. Việt Nam can trường giới thiệu trước nhân loại hoạt cảnh “Làng ta ngựa đá đã qua sông”:

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa

Làng ta ngựa đá đã qua sông

Người đi như cá theo con nước

Trống ngủ liên nôn nả gióng mừng

Qua tới bên kia sông, “ngựa đá” đối diện với huyền sử 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi, 50 con theo Cha Lạc Long ra biển. Huyền sử này nhắc nhở giấc mơ kết hợp núi và biển của mỗi người Việt. Để có được vận động nở hoa, mỗi hoa hồng phải thực hiện một loạt kết hợp: đất, nước, ánh nắng, rễ, thân, lá…sau cùng, cây hồng nở hoa. Sống tức là vận động và kết hợp. “Ngựa đá” qua sông, “ngựa đá” phải quay về mới hoàn tất một chu kỳ vận động và kết hợp. Quay về trong trường hợp này là tâm lý cố gắng xóa tan mọi ly tán giữa đồng bào với đồng bào. Nổ lực xóa tan ly tán này cần đến chiều dài của lịch sử, cần đến sự tham gia tích cực của các thế hệ nối tiếp. Nhằm chuẩn bị hiện thực hóa giấc mơ lịch sử kia, Tô Thùy Yên ân cần dặn dò giới trẻ hai điều:

– Một là hãy quên đi tuyên truyền mị dân và giáo dục nhồi sọ của chế độ độc tài toàn trị.

– Hai là hãy nhớ lại và hãy quay về với văn hóa truyền thống của Việt tộc xưa dưới hình ảnh “Con dế vẫn là con dế ấy, Hát rong bờ cỏ giọng thân quen”.

Hai lời dặn kể trên hiển nhiên là các bước chuẩn bị cần thiết để lịch sử chuyển mình:

Bé ơi, này những vui buồn cũ

Hãy sống đương đầu với lãng quên

Con dế vẫn là con dế ấy

Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen 

Đọc thơ của Tô Thùy Yên, một số người đưa ra nhận định: Đây là những áng văn thơ không dễ đọc. Tuy nhiên khó đọc là chỉ dấu rõ ràng tấm lòng thiết tha của Tô Thùy Yên đối với Nàng Thơ và là thái độ trân quý của Tô Thùy Yên hướng đến trình độ thưởng lãm tinh tế của người đọc. Mặt khác, khó đọc lại chính là sức cuốn hút rất thơ của thi phẩm Ta Về: khi trầm lắng, khi cất cánh lên cao, khi yêu thương, khi phẩn hận, khi lãng mạn, khi khuôn phép… Cuối con đường cuốn hút kia, người đọc nhận ra ba chân lý:

-Thực trạng đau khổ của Việt Nam (Bản thể luận)

– Các chìa khóa giúp giải trừ đau khổ (Nhận thức luận)

-Hành động cụ thể tạo hanh thông cho lịch sử (Phương pháp luận)

Mặc dầu Ta Về đã gói ghém toàn tâm và toàn trí của tác giả, Tô Thùy Yên vẫn khiêm tốn viết lời tâm tình:

Ta về như hạc vàng thương nhớ

Một thuở trần gian bay lướt qua

Ta tiếc đời ta sao hữu hạn

Đành không trải hết được lòng ta

Thực ra “lòng ta” đã được “trải hết”. Lòng là tim óc, là tư tưởng, là tri. Tri phải đi với hành. Tri là tính, hành là mệnh. Tính và mệnh là hai mặt của một bàn tay. Tính mệnh của quốc gia chỉ tồn tại trong hạnh phúc và ổn định khi cấu trúc chính trị của quốc gia đó phù hợp với nhu cầu tìm về Nhân, thể hiện Nhân trong đời sống của mỗi người Dân. Nhà cầm quyền nào cấm cản quan hệ Nhân và Dân, chống lại nhân quyền, nhà cầm quyền đó nhất thiết phải bị lịch sử đào thải. Đây là hướng tiến tất yếu của lịch sử./.

Đỗ Thái Nhiên

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *