Một thoáng Pleiku

      8 Comments on Một thoáng Pleiku

Phạm Tín An Ninh

Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa – thực sự vĩnh viễn xa – Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ,  trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy,  giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiêt) và  đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt – Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.

Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum.  Bộ Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”.  Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?)  như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới.  Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân , để “may mà có em đời con dễ thương !”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13.3.75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh.  Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ – nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng ;

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui

….

cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó

….

Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như  cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời.  Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Dương Đình Chính, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh,  những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku.  Khi tất cả – có lẽ cũng như tôi-  chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên

mê cho lắm cho tay dài với mộng

mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng

phố cũng xưa và tim thì đau nhói

quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”

Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó,  nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku. •

Phạm Tín An Ninh

(viết cho Đại Hội Phố Núi Pleiku tại Cali/USA tháng3/2013)

– Mời nghe Audio – do MC Thúy Anh & Nguyên Vũ thực hiện trên Sài gòn Radio Hải Ngoại:

 – Nhạc phẩm “Xưa Trên Đó”, thơ VÕ Ý – nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ nhạc và ca sĩ Tấn Đạt trình bày:

8 thoughts on “Một thoáng Pleiku

  1. Trần Xuạn Bách

    Tác giả là một người có tấm lòng với quê hương, đồng đội và tất cả mọi người. Tôi chưa bao giờ có dịp đến Pleiku, nhưng đọc bài viết của ông mà cũng thấy thương nhớ cái thành phố mù sương này, và thấy xót xa cho những người lính miền Nam, những người lính hiền lành và lãng mạn như thơ Nguyễn Bắc Sơn:
    “Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
    Đi hành quân với rượu đế mang theo
    Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
    Xem chiến cuộc như tai trời ách nước..”

    “Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
    Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
    Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
    Nỗi buồn sương khói của mùa thu”

    Bây giờ trong số họ chắc có nhiều người đã mất, hầu hết những người còn lại thì cũng đã già, đang tản mát khắp nơi, mà lòng luôn trăn trở, hướng về những địa danh khói lửa một thời, có những bạn bè đồng đội của mình nằm xuống vì quê hương dân tộc.
    Xin cám ơn tác giả, cám ơn bài viết đã cho tôi nhiều cảm xúc, và xin cám ơn tất cả những người lính VNCH.
    Những người dân miền Nam luôn nhớ đến các anh với lòng kính yêu, tiếc nhớ, khi thấy quê hương, dân tộc ngày càng tan nát, điêu linh khốn khổ trong tay của lũ người chiến thắng, ngu dốt, dã man, tham ô và hèn với giặc mà ác với dân! Một chính quyền tồi tệ và có tội lớn nhất trong lịch sử của dân tộc,.

    TXB/ Saigon

    Reply
  2. D.Tiên

    Niềm may mắn và hân hạnh trong đời lính của Dâm Tiên, là được có mặt
    phục vụ tại KBC 4100 Thủ Đức, nơi hội tụ của tuổi trẻ tài năng thuộc đủ
    lãnh vực của miền Nam đất lành. Phạm Tín An Ninh là một ánh đèn sáng
    trên văn đàn KBC 4100 và KBC 4001, tức toàn quân thuộc QLVNCH…cùng
    với những Trần Hoài Thư, Lâm Chương, Thế Uyên, vv. ( không kể cả một
    chùm người thơ làm lính, như DTL, NSa, L.Hoán, Hoàng Lộc…)

    DT cũng từng trấn thủ lưu đồn như PTAN nơi nóc nhà quê hương PLK,
    ,– một thoáng PLK – mà nỗi nhớ theo suốt cuộc đời. Đã nhận ra nhau,
    xin thân chào Phạm Tín An NINH, niềm vinh dự của DT. Và, từ lúc này,
    có lẽ DT xin thôi là cháu ngoan boác DâN Tiên, để trở về cái tên quen
    thuộc miền Nam của mình, là Hà Châu, YY…
    Chờ đọc thêm những Một thoáng PLK, Một đời với quê hương, với bạn
    bè của PTAN. Thân kính, YY

    Reply
  3. K'sor Aleo

    Tác giả PTAN viết ” Một Thoáng Pleiku” một thoáng thôi mà lắng sâu vào lòng người đọc. Tôi còn nhớ cả hai Ban 3 của Tr/Đ 44 va ThĐ3 KB cùng làm việc chung trong căn hầm làm TTHQ của Tr/Đ 1/10 Thiết Giáp Hoa Kỳ để lại nằm cạnh Phi trường An Khê. Những ngày tháng Bình yên hiếm hoi trước khi xông vào các trận đánh lớn ở Pleiku-Kontum. Tôi theo niên trưởng Xuân, con chim đầu đàn của 44 ,đi uống cà phê ở đầu cầu sông An Khê và thỉnh thoảng gặp các đàn Anh Võ Anh Tài và Đặng Trung Đức, hai TĐT của 44, một trong hai người có chiếc nón bo rộng vành thật đặc biệt. Vậy mà mấy tháng sau tôi tình cờ đọc trên một tờ Nhật báo thấy tên cả ba vị Tiểu -Đoàn-Trưởng, có thêm Anh Trần Công Lâm, Vô Cùng Thương Tiếc Cố Trung Tá…Không thể tưởng tượng nỗi sự khốc liệt của chiến trường Tây nguyên. Và Trung Đoàn 44 BB đứng mũi chịu sào có tác giả PTAN trong đó…
    Nhớ lần đầu tiên nghe bài nhạc ” …Đi năm phút đã về chốn cũ..” Tôi cùng ngồi với nha Thơ Kim Tuấn, Vũ Hoàng và Lâm Hão Dũng, ở quán cà phê Văn gần Chợ Mới, Kim Tuấn chặc lười nói :” Mình ở đây gần cả một đời mà chẳng làm được gì, vậy mà một tay Giang Hồ nào đó tạt ngang đây chỉ mấy phút lại làm được một bài thơ để đời. Đau thật ! ” . Suốt cuộc đời binh nghiệp của tôi là ở Pleiku, đàn Anh PTAN chỉ một thoáng qua thành phố của chiến tranh nầy . Hôm nay, đọc xong bài viết của đàn anh ,tôi xin mượn câu nói của cố thi sĩ KIM TUẤN để nói với đàn Anh như thế với tấm lòng khám phục…

    Reply
  4. D.Tiên

    :

    Đại DâM TiêN buồn quá đi thôi khi xa tỉnh nhỏ Pò Lây Ku, nơi
    máu đào đã thấm, lệ đã tràn, và vòng tay chưa mỏi mệt.. hà hà
    Xa PLK, lại lang thang mấy vùng chiến thuật, về dưỡng sức trai
    nơi KBC 4100 — bốn ngàn một đêm–săn sóc Khóa 18… THƠ:

    RỜI VÙNG CAO

    Đi từng bậc xuống, bồi hồi
    Trong men giã biệt, xa rời từ đây
    Trời xanh nhẹ vẫy khăn mây
    Núi nằm dim ngủ giang tay níu vời

    Cho ta đi nhé, đi thôi
    Biển Hồ chứa lệ những người xa nhau
    Này im, nghe, suối xôn xao
    Đành lòng dưới bóng cây cao êm đềm
    Xin đừng rộn rã lời chim
    Đời du sinh mỏi cánh tìm phương bay

    Ta bàn giao lại hôm nay
    Hai mùa mưa, nắng, xin thay ta cùng
    Đất ơi, đất mãi son hồng
    Hào quang ơi, mãi ôm vòng Chư Pao
    Đi theo niềm nhớ, bàn giao
    Những vùng hoang thảo hãy vào đặt tên
    Và cho nhau mới thân quen
    Hãy hoàn thành những mối duyên hẹn chờ

    Cho ta đi, khỏi buồn lo
    Ngoài trường giang sóng đang hò thuyền xuôi
    Đường xa thấm mặn mồ hôi
    Bàn giao chút nữa quên thôi: Thơ này!

    Ta đi tiếp nhận gió mây.

    ( Khi Xa Pleiku) — YY

    Reply
  5. Dâm.Tiên

    DâM tui cũng lưu đồn nơi Pờ lây Ku, sương mù, Catéka, Hàm Rồng,
    Toumorong,Chư Pao, Biển Hồ, Thanh Bình…một thời ấy a… Có yêu
    có nhớ lắm kìa. Rồi hết Cần Thơ, Nha Trang, dìa KBC 4100, coi 4/18…
    Có thơ để nhớ PLK, góp nhời tí ti cùng Phạm Tín Anh Ninh:

    BÀI THƠ TỈNH NHỎ

    Phố hẹp đường vòng dan díu nhau;
    Hàng cây trong gió bấc nghiêng đầu
    Bước đi chào bước về thân mật
    Tỉnh nhỏ thời gian chẳng đổi màu

    Khoác áo bốn mùa tôi đến đây
    Tình cờ tôi được chuốc men say
    Bốn phương trước lạ sau quen đó
    Góp lại niềm vui tỏa ứ đầy

    Thiếu nữ xem duyên trước kính đài
    Có mua rây nhẹ làm run vai.
    Nắng lên! cho bụi hồng thoa phấn
    Cho áo người con của dặm dài

    Ta yêu tỉnh nhỏ, chim yêu rừng
    Cửa sổ đêm mờ còn mở tung
    Phố xá làu tên tình quyến luyến
    Mời ta giang rộng đón tay vòng

    Mái ngói chạy dài ghé sát nhau
    Cao nguyên luôn ướp đậm hương màu
    Đèn vừa đủ sáng cho thư đọc
    Đủ sáng cho hồn không đêm thâu

    Bao số nhà ghi chiều chẵn, lẻ
    Bấy nhiêu tâm sự gởi cho em,
    Hỡi người thanh nữ bên thành nhỏ
    Có cảnh đẹp nào không trái tim?

    Tôi sợ thời gian gây nhớ nhung
    Muốn yêu Hiện tại đến vô cùng.
    Cố ghi âm lấy lời thầm ước,
    Thu cả hương yêu tận đáy lòng.

    (Quà tặng Quê Hương)– YY

    Reply
  6. Cao Minh Hà

    Một bài viết ngắn nhưng đã gây trong tôi nhiều cảm xúc. Nhớ da diết một thời Phố Núi. Nhớ lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè, đã nằm xuống hay đang trôi dạt ở phương nào! Có thể tôi cũng đã từng gặp Phạm Tín An Ninh ở đâu đó, Kontum, Pleiku, Đồi Đức Mẹ, Biển Hồ?
    Xin cảm phục tấm lòng, trí nhớ và văn phong của anh. Cám ơn anh đã cho tôi tìm lại niềm hãnh diện của một người đã từng là lính, dù thời gian trong quân ngũ không dài như anh.

    CMH

    Reply
  7. Nguyễn Minh Phúc

    Tôi mới viết một bài thơ về Pleiku muốn gủi tặng bạn PTAN như lời tri ân vì một bài viết quá hay và xúc động của bạn.

    DÃ QUỲ PLEIKU
    Dã quỳ vàng thẵm Pleiku
    Lời ru đắm đuối mùa thu, tôi về…
    Nghe chiều vàng rực đê mê
    Say em và ngụm cà phê nồng nàn
    …Nầy em nầy dã quỳ vàng
    Tôi lơ ngơ đứng giữa ngàn thông xanh
    Nầy chiều nầy khói mong manh
    Sương rơi phố núi không đành chân đi…
    Theo em hương ngát dã quỳ
    Bâng khuâng vương mối tình si nặng nề
    Giàng ơi…tôi lỡ câu thề
    Nên tơ vương ngập nẻo về sương giăng…
    Ơ nầy… em gái Sê Đăng
    Có hay tôi hái vầng trăng lưng đồi
    Gửi thầm một vạt mây trôi
    Em nghe khẽ tiếng lòng tôi thầm thì…
    …Nầy hoa vàng thắm dã quỳ
    Thương tình tôi đậu nhu mì vai ngoan
    Pleiku chiều khuất mây ngàn
    Có người thả đóa …
    hoa vàng
    tương tư…

    Nguyễn Minh Phúc
    Tháng mười dã quỳ
    Pleiku

    Reply
  8. Tài Trần

    Nhờ tên tốt nên cuộc đời cực kỳ may mắn

    Vì thấy nhà văn gốc quân đội Phạm Tin An Ninh quá nổi tiếng và quá may mắn nên tôi đã dùng LTS phân tách tên của ông.

    PHẠM = 8514 = 18 = 9
    TÍN = 415 = 10 = 1
    AN = 1 5 = 6
    NINH = 5155 = 16 = 7
    Cộng lại: 9 1 6 7 = 23 = CỰC KỲ MAY MẮN.

    Nhà văn Phạm Tin An Ninh* rất nổi tiếng trong cộng đồng hải ngoại. Ông kể lại, sau gần 10 năm tù ông đc thả (cha cũng đi tù một lượt nhưng đã chết sau 2 năm) và ông vượt biên, chỉ sau HAI ngày, dù gặp giông bảo, gần 50 ng mà phân nửa là đàn bà trẻ em đã đc tàu dầu Na Uy chạy đường HK đi Singapore cứu vớt. Ông nói, trong những ngày sống trên tàu đã nghĩ rằng mình đã đến thiên đàng vì thủy thủ đoàn quá tử tế. Hiện ông định cư ở Na Uy ở Bắc Âu – một nước mà phúc lợi xã hội còn hơn cả Mỹ. — và có con gái du học tại Anh và Mỹ.
    * Ông từng ở một tiểu đoàn lưu động và thiện chiến, hành quân khắp lãnh thổ của SĐ 23, nghĩa là nhiều lần vào sanh ra tử. Ông đại diện cho những sq của chế độ cũ đã văn võ song toàn vì đã đem những gì mình học để áp dụng trong thực tế, đặc biệt trong giai đoạn đã giả từ vũ khí.
    Ông nguyên là học sinh trường Võ Tánh Nha Trang trước 75, cùng trường với anh Đức, láng giềng của tôi.
    https://phamtinanninh.com/?cat=23

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *