nguồn cội xót xa

      1 Comment on nguồn cội xót xa

Nguồn Cội Xót Xa

Đêm sẻ chia cùng những xót xa
vết nhăn trên trán tuổi đang già

cơn đau nhắc nhở rằng ta sẽ
có ngày lạc nẻo giữa bao la

Cung Vĩnh Viễn

Tôi quen Long từ lúc còn trong quân trường. Hai thằng có nhiều thứ khác nhau. Cái tên Nguyễn Vĩnh Long của nó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy cách xa nó đến cả… vài trăm cây số. Nó cao lêu ngêu, tôi thuộc loại chỉ đủ thước tấc đi lính. Mỗi lần xếp hàng diễn hành hát bài Đường Trường Xa (Lục Quân Việt Nam), nó cầm cờ đi hàng đầu, còn tôi ách ê hàng áp chót. Tôi ăn nói vụng về nên thường thầm lặng còn nó thì giỏi lý sự nên nói hơi nhiều. Cái giọng nam bộ của nó thường mở đầu bằng mấy tiếng chửi thề, nên tôi ngại nói chuyện với nó. Dường như hai thằng chỉ có một điều giống nhau duy nhất : Con nhà nghèo, gia đình lại ở quá xa, cho nên những ngày cuối tuần, hai thằng đều mồ côi tại chỗ. Không ngờ chính cái điều giống nhau duy nhất ấy mà sau này hai thằng trở thành bạn chí thân
Quả thật là nó có nhiều thứ khác tôi, nói cho đúng là có nhiều cái hơn tôi. Ra trường nó đỗ cao, được chọn về một quân trường trong Huấn Khu Dục Mỹ , ngay tại quê tôi, làm huấn luyện viên, còn tôi lại phải ra làm trung đội trưởng ở một đơn vị tác chiến tận trên cao nguyên xa tít mịt mùng.

Sống xa nhau, nhưng cứ mỗi lần về phép, hoặc có dịp dẫn quân qua Dục Mỹ, Nha Trang là tôi ghé lại thăm. Có khi ở chơi với nó cả tuần.

Hoạn lộ của Long coi bộ thênh thang hơn tôi nhiều lắm. Làm huấn luyện viên, cán bộ, chỉ một thời gian ngắn nó được rút về làm Trưởng Ban, rồi lên Trưởng Phòng. Nhờ mấy năm học thêm ở Hội Việt Mỹ, nên tiếng Anh thuộc loại khá, có thể ngồi đấu láo với mấy tay cố vấn Mỹ vài tiếng đồng hồ, nó được gởi sang Mỹ học hai ba khóa đặc biệt gì đó. Ở môi trường nào nó cũng thích nghi, nhanh nhẹn xông xáo và có tài, nên luôn được thượng cấp thương. Chức vụ cao, cứ theo bản cấp số, nó lên lon lên lá vù vù. Còn tôi quanh năm đánh đấm, nằm núi lội rừng, thương tích mấy lần cũng chỉ được mấy cái huy chương, mà chẳng có dịp nào đeo trên nắp túi áo làm oai với mấy cô em gái hậu phương. Đã vậy lại có tính hay cãi, nên lâu lâu bị các “xếp” ký cho vài  “củ”.

Sau mấy năm, nó đã lên đến quan ba. Tôi về phép đúng lúc ăn khao. Nó dặn dò tôi hai tháng nữa, cố gắng dọt về đây làm phụ rể cho nó. Nó lấy vợ. Nghe nói vợ nó là trưởng nữ của một nhà giàu ở Nha Trang nên đám cưới sẽ linh đình ghê lắm. Hai tháng sau tôi đang đóng quân ở Lâm Đồng, năn nỉ ông tiểu đoàn trưởng xin năm ngày phép, theo trực thăng H-34 tiếp tế của Phi Đoàn Thần Tượng 215, bay về Dục Mỹ  mừng đám cưới thằng bạn chí thân. Vào nhà nó trong cư xá khi trời sắp tối. Cửa đóng im ỉm. Tôi vào cổng quân trường hỏi sĩ quan trực. Ông cho biết Long đang còn ở trong văn phòng.

 – Cái thằng này, lúc nào cũng gương mẫu. Ngày mai cưới vợ mà bây giờ còn cặm cụi  làm việc. Hèn gì nó cứ lên lon lên chức là phải. Tôi nghĩ thầm trong bụng.

Đẩy cửa vào văn phòng, thấy nó đang ngả người trên ghế, hai chân gác lên bàn, mặt mày thiểu não. Tôi có linh tính là ngày mai tôi không có cái vinh dự được làm phụ rể. Nó không nói năng gì và cũng chẳng đưa tôi về cư xá mà lái xe chở tôi chạy một vòng ra quán nem Ninh Hòa, uống mấy lon bia trút mọi điều ẩn ức:

–  Đ.m. bà già dịch của con bồ tao không chịu gả con gái cho tao.

Lâu rồi, tôi mới nghe lại cái giọng chửi thề ngày xưa của nó. Tôi trố mắt nhìn nó chờ lời giải thích.

–  Mày biết không, nghe con bồ tao bật đèn xanh, bảo là đã được sự đồng ý của bố mẹ, ông già tao với mấy bà dì từ Vĩnh Long khăn gói ra Nha Trang xin làm lễ hỏi trước một tuần rồi làm đám cưới. Sợ không môn đăng hộ đối, tao phải nhờ ông đại tá chỉ huy phó dẫn nhà trai đến nói chuyện với ông bà. Ông chồng thì vui vẻ tay bắt mặt mừng, tao thấy đời cũng còn lên hương. Tới lúc mọi người đứng vào vị trí “thao diễn nghỉ”, bà vợ mới nghiêm mặt phán cho một câu làm tao muốn xỉu luôn tại chỗ.

–  Câu gì mà ghê gớm như lời chúc tết của “bác” trước tết Mậu Thân vậy ? Tôi đùa.

–  Bà hỏi ông già tao: Ông hỏi con trai của ông, là lương tháng của cậu ta có đủ cho con gái tôi mua phấn son cho nó hay không mà đòi cưới với hỏi.

Có vài lần đi chơi chung với Long và cô vợ hụt này. Nàng không đẹp lắm, nhưng dễ thương, gốc Bắc Kỳ 54, nên giọng Hà Thành còn “ngàn năm văn vật” lắm. Cha mẹ cô là chủ một hảng thầu có máu mặt ở Nha Trang. Nàng học xong tú tài thì nối nghiệp mẹ cha, kinh doanh, làm chủ mấy cái sạp vải trong chợ Đầm, còn làm thêm cái nghề tay trái là theo bà mẹ thầu cung cấp thực phẩm cho khóa sinh trong các quân trường. Chính cái nghề phụ này mà cô nàng gặp và mết Long, một trưởng phòng trẻ tuổi cao ráo đẹp trai. Qua mấy năm tình yêu còn mặn nồng hơn nước biển Nha Trang, nhưng biết bà mẹ chê lính nghèo, nên nàng không dám mở lời. Cuối cùng thì nàng năn nỉ ông già. Cái đám hỏi là do chính ông đưa đường chỉ lối. Ông hiền lành tốt bụng, nhưng kẹt là mọi việc bà vợ đều nắm quyền. Mà đã là vợ nắm quyền thì cái nhà sẽ trở thành vô phúc. Tôi đã từng nghĩ, miền Nam sụp đổ cũng có sự góp phần không nhỏ của những bà vợ mấy ông lớn ưa nắm quyền chồng.

Sau đám hỏi bất thành, ông già nó trở về Vĩnh Long, buồn và tủi thân nên bệnh cả mấy tháng trời. Nó bảo là vẫn nặng tình với cô con gái, nhưng rất hận bà già bắc kỳ giết giặc.

Tôi lên mặt dạy “chiến thuật” cho nó:

–  Mày là lính văn phòng mà còn bị chê, cỡ tao là lính tác chiến thì chắc chỉ phải đứng xa ngoài cửa. Tao như mày thì một là áp dụng chiến thuật cổ điển“tiền pháo hậu xung”, còn nếu mày thấy con tim mầy chưa đến nỗi lao đao, thì cứ tìm mục tiêu khác ngon lành hơn mà “đột kích”. Mày là lính, đừng để mất mặt KBC.

Nó đập vai tôi cười méo mó.

Không biết có phải nhờ nó áp dụng “triệt để” bài học chiến thuật tôi dạy lần trước, nên vừa “đột kích“ được mục tiêu nào mới hay không, mà chỉ gần ba tháng sau nó lại nhờ một anh bạn phi công L19 từ Nhatrang lên bao vùng liên lạc nhắn tôi  hạ san gấp ăn đám cưới của nó. Báo hại lần này tôi phải nói dối với ông tiểu đoàn trưởng một lần nữa, để bỏ rừng theo trực thăng Mỹ vù về thành phố biển.

Nó đón tôi ở phi trường Nha Trang. Vừa gặp nó tôi đã “biểu dương thành tích”:

– Tao phục mày. Tao là dân đánh đấm mà cũng chưa chiếm được mục tiêu mới trong vòng ba tháng, nhất là sau một lần chiến bại còn thương tích đầy mình. Mày mà ra cầm quân chắc cũng đã là “đại bàng”của tao từ lâu rồi.

Nó đấm vào bụng tôi một cái:

–  Mục tiêu mục tiết cái con khỉ. Tao áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của mày đó. Nhờ có ông già cô ta làm nội ứng. Có bầu hai tháng rồi.

Tôi tròn mắt:

–  Tao còn phục tài mày hơn nữa. Cái gì mày cũng đáng là “sư phụ “của tao.

Đám cưới vội vã, nhưng cũng linh đình. Có lẽ vì thế giá của ông bà thầu khoán. Chỉ có điều đại diện bên nhà trai chỉ toàn là lính. Cha của Long thương thằng con, nhưng còn hận đời nên đành “vắng mặt có lý do”.

Tám tháng sau tôi về phép ghé thăm. Vợ chồng nó vẫn ở trong khu cư xá, nhưng được cấp ưu tiên một căn rộng và khang trang hơn. Trong nhà bày biện sang trọng hơn. Gặp tôi bất ngờ nó mừng ra mặt, vì đúng lúc nó tổ chức ăn khao lên chức, nhưng lần này là chức… Cha, vì vợ nó vừa sinh đứa con trai đầu lòng. Niềm vui của nó lớn hơn khi cha nó lặn lội từ Vĩnh Long ra thăm để được bồng thằng cháu đích tôn. Nó nâng thằng con lên khoe với mọi người:

–  Như vậy là tao cũng báo hiếu được cho ông già, sau này cũng có người bưng hình cho ổng.

Có người không hiểu hỏi bưng hình làm gì. Nó giải thích :

–  Là khi nào ông già tao qui tiên, nó bưng hình ổng đi trước quan tài đó.

    Tôi thúc tay vào hông nó, bảo đừng nói điều gở.

    Buổi chiều, khi chia tay, tôi nắm chặt tay hai vợ chồng nó :

–  Mừng cho ông bà, tài lộc gì có đủ rồi đó nghe. Trong đám bạn nghèo, mày là thằng số một đó nghe Long.

Hai vợ chồng ôm lấy tôi cười rạng rỡ.

Sau cái ngày ăn mừng “chiến thắng” của  nó, thì trên chiến trường thực sự của tôi lại bắt đầu sôi động. Từ Sông Mao, đơn vị tôi di chuyển khẩn cấp lên An Khê vào đúng chiều ba mươi tết. Sau khi đánh một trận thần tốc, giải tỏa mấy cái đồn của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn bị địch bao vây ở đèo An Khê. Chỉ vài tháng sau toàn bộ lại di chuyển lên phi trường Pleiku để không vận lên Kontum, giữa “mùa hè đỏ lửa”.

Đầu tháng 3/75,sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, từ Pleiku tôi theo đơn vị đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất của Tỉnh Đắc Lắc còn lại, nằm dưới cây số 14 trên Quốc Lộ 21 về hướng Dục Mỹ, trong kế hoạch tái chiếm thành phố đất đỏ “bụi mù trời” này. Nhưng lực lượng địch quá đông, đại quân với chiến xa T-54 của chúng từ Ban Mê Thuột ào ạt tràn xuống. Kế hoạch tái chiếm bất thành. Đơn vị tôi bị thiệt hại nặng. Sau khi bàn giao vị trí lại cho Lữ Đoàn Dù, riêng đơn vị tôi được biệt phái bảo vệ BTL Tiền Phương Quân Đoàn. Nói là tiền phương nhưng đóng tại Nha Trang. Trên đường di chuyển, tôi ghé lại Dục Mỹ thăm vợ chồng Long một lần vội vã, nhưng chỉ gặp nó, còn vợ con thì phải “di tản” trước về ở với ông bà già trên đường Độc Lâp NhaTrang.

Chỉ một ngày sau, những người đầu tiên sống sót từ dòng người di tản theo tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang,  mang không khí hốt hoảng bao trùm lên thành phố biển. Long liên lạc tôi qua tần số vô tuyến, hẹn gặp gấp trước cổng Grand Hotel, đang được xử dụng làm BTL Tiền Phương QĐII.Trên xe vừa bước xuống, nó bảo tôi đi với nó tới Nam Việt Ngân Hàng ở góc đường Độc Lâp – Nhà Thờ,  dẫn theo một tiểu đội lính.

Tôi vừa được Trung Tâm Hành Quân cho hay: một số tù trong quân lao vừa phá cổng thoát ra ngoài, nên nghĩ ngay đến chuyện có  cướp ở ngân hàng. Tôi bảo nó :

–  Lính tráng trong tình trạng ứng chiến, muốn đi đâu phải xin lệnh. Để tao vào nói với ông Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân.

Nó ngăn lại, ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ:

–  Tao nhờ mày việc riêng. Mày có lính tráng dễ nói hơn tao. Tao mang cái phù hiệu quân trường, nói không mạnh lắm. Bao nhiêu tiền vợ chồng tao đều gởi trong ngân hàng. Bây giờ đến rút nó không cho, bảo phải vào ngân hàng chính trong Sài Gòn. Tay giám đốc chi nhánh bảo là cả tiền bạc và sổ sách đã gởi đi Sài gòn rồi. Nhưng tao không tin. Hơn nữa tao là lính tráng, đâu có muốn bỏ đi Sài gòn lúc nào cũng được.

Tôi ngần ngừ, bảo nó là không được xử dụng lính tráng trong việc này, nhưng nghĩ nó là thằng bạn thân, sống chết có nhau, hơn nữa nó nói có lý. Của mình mình lấy, có gì là phi pháp. Tôi vào nói nhỏ thằng bạn Sĩ Quan trực trong TTHQ, rồi gọi hai chú lính thân cận đi theo. Đậu xe bên kia đường, chỉ có tôi và Long vào ngân hàng. Hai thằng nói nhỏ với mấy anh cảnh sát gác cửa xin vào gặp ông giám đốc. Bắt tay chào hỏi ông xong tôi “dùng tình cảm xuống nước nhỏ”:

–   Nhờ ông giám đốc đặc biệt giúp cho anh bạn thân của tôi. Chắc ông cũng biết, đây là tiền buôn bán làm ăn của vợ ảnh chứ có thụt két tham nhũng gì đâu. Hơn nữa tụi tôi là lính, phải đi theo đơn vị, đâu có biết lúc nào mới vào được Sài Gòn mà rút tiền. Tôi biết là khó khăn cho ông, nhưng mong ông giúp đỡ đám nhà binh tụi tôi trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này.

Ông giám đốc nghiêm mặt chau mày suy nghĩ, rồi hạ giọng.

–  Thực là khó cho tôi quá, vì tôi phải làm theo lệnh của trung ương. Nhưng thôi được, nể tình mấy anh, tôi phải lấy quỹ dự trữ an toàn ra mà phát cho anh. Nhưng xin các anh đừng tiết lộ cho ai biết nghe.

Chúng tôi nói cám ơn đến mấy tiếng. Và như để đáp lễ tôi cũng báo cho ông biết (mà có lẽ người Nha Trang nào cũng biết rồi) là tình hình nguy hiểm lắm, tù trong quân lao đã thoát được ra ngoài. Ông phải đề phòng.

Trước đây tôi đã nghe nó khoe mấy lần là con vợ Bắc kỳ của nó làm ăn rất giỏi,  nhưng tôi cũng không ngờ thằng bạn nghèo của tôi ngày xưa bây giờ lại có nhiều tiền đến như vậy. Tôi không rõ bao nhiêu, nhưng thấy nó phải dùng đến mấy thùng đạn đại liên để chứa tiền.  Nó chia tay và bảo phải quay trở về Dục Mỹ ngay. Tôi bảo sao không cất tiền ở nhà ông bà già vợ mà đem vô chỗ giặc giã, lính tráng làm gì. Nó lắc đầu:

–  Tao chẳng bao giờ muốn dính dáng tới cái bà già Bắc kỳ giết giặc đó. Tình hình này thì người đâu của đó cho bảo đảm. Hơn nữa ở cư xá tao còn có lính tráng canh gác.

Hôm sau, Trung Tâm Hành Quân được báo cáo là địch quân đang tập trung quân cố chọc thủng phòng tuyến cuối cùng của Lữ Đoàn Dù ở Khánh Dương. Các Trung Tâm Huấn Luyện ở Dục Mỹ chuẩn bị di tản. Toà Lãnh Sự Mỹ cũng đã rời khỏi Nha Trang, và ông tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Khánh Hòa một thời hét ra lửa cũng đã biến mất từ lúc nào, không có mặt trong buổi họp khẩn cấp sáng nay của Tiểu Khu. Ngày hôm sau, tướng Phú bay vào Sài gòn trình diện Tổng Thống. Đám chúng tôi không có ai để nhận lệnh lạc nữa. Mọi người tự tìm cách rời khỏi Nha Trang. Cách tốt nhất là tôi dẫn đơn vị chỉ còn một phần tư quân số vào Cam Ranh gặp cấp chỉ huy của tôi ở đó. Liên lạc với người bạn thân trong TTHL Hải Quân, được biết chiến hạm 401 HQ sẽ ủi bãi tối nay để di tản toàn bộ SVSQ /HQ vào Vũng Tàu hoặc Cát Lở. Anh ta có trách nhiệm đi theo. Tôi xin anh dành cho tôi mấy chỗ và giúp đưa vợ con tôi đi trước, còn tôi cùng đơn vị sẽ di chuyển vào Cam Ranh. Anh trả lời OK ngay.

 Đồng hồ trên tay tôi chỉ 3 giờ 15 phút chiều. Tôi gọi vô tuyến cho Long, bảo nó nếu muốn cho vợ con cùng đi tàu Hài quân với vợ con tôi, thì báo cho tôi biết để hẹn gặp nhau trước TTHL Hải Quân trước 7 giờ chiều nay. Tôi vội vã xách xe Jeep chạy về Ninh Hòa đón vợ con.

Đến đèo Rù Rì, tôi vững tâm và thầm cảm phục khi thấy một đơn vị Dù vừa được trực thăng đổ xuống, đang bình tĩnh dàn quân phòng thủ dọc theo sườn núi trên đèo. Nhưng xe vừa xuống đèo, tôi giật mình khi trước mặt vô số xe cộ, dân, lính đủ loại nối đuôi không dứt, hối hả chạy ngược chiều về hướng Cam Ranh. Chỉ mỗi cái xe của tôi là đơn độc hướng về phía bắc, Ninh Hoà. Tôi dành tay lái, bảo anh tài xế ôm súng ngồi bên cạnh. Anh cũng là dân Ninh Hòa nên xin về với gia đình luôn, không muốn đi theo. Trên đường đi bất ngờ tôi gặp Long trong đoàn xe di tản ngược chiều từ Huấn Khu Dục Mỹ, nhưng nó chỉ kịp cho biết là phải di tản cùng khóa sinh vào Cam Ranh, vợ con nó cũng đang ở đó,và hẹn giữ liên lạc trên máy vô tuyến.

 (Có một chi tiết nhỏ nhưng đã làm tôi cảm động và khó quên: Khi tới chân Đèo Rọ Tượng, nơi trước kia đã học khóa Rừng Núi Sình Lầy, tôi thấy một chiếc xe đám cưới, mà cô dâu là cô bé láng giềng xinh đẹp của bà xã tôi, và chú rể là một sĩ quan pháo binh trẻ. Đôi tân hôn nhớn nhác hối hả chạy theo dòng xe định mệnh. Trong những ngày trong tù, đôi khi tôi nghĩ tới cô dâu chú rể giờ thứ 25 này và không biết tình duyên của họ giờ đã ra sao).

Khi chở vợ con trên đường trở lại Nha Trang, đến ngã ba Đồng Đế, tôi chứng kiến một cảnh tượng thật thê lương: quân phục, súng ống vất dọc đường, mấy ngôi nhà đang cháy, có vài ba xác chết. Khó khăn lắm tôi mới lái xe về tới Nha Trang.

Và cũng kể từ đó tôi không còn liên lạc được với Long nữa. Gọi vào các tần số Long cho, đều không có trả lời. Thấy tình hình quá phức tạp rối ren, nghĩ tới số tiền khá lớn mà vợ chồng Long mang theo, tôi lo lắng cho Long.

Qua bao khó khăn nguy hiểm, đơn vị tôi mới vào được Vũng Tàu. Tôi xin phép về Sài Gòn, tìm gặp và sắp xếp nơi ăn chốn ở cho vợ con xong, rồi trở lại trình diện  đơn vị cũ. Đơn vị tôi cùng nhiều đơn vị khác di tản từ Quân Khu 2 về đây, đều được giải tán để tái lập Sư Đoàn 22BB. Tôi được đại tá Võ Ân, người hùng từ chiến trường Ban Mê Thuột tìm và nhận về Trung Đoàn 47 mà ông được lệnh tái lập. Đại Tá Võ Ân tốt nghiệp khóa 12 Thủ Đức, dáng dấp nhỏ nhắn và hiền lành như một nhà giáo nhưng lại là một vị chỉ huy trẻ tuổi, tài năng đảm lược, nổi tiếng tại Vùng 2. Và đặc biệt trong trận chiến Ban Mê Thuột, khi đại quân Cộng Sản đã chiếm hết thành phố này, ông chỉ huy đơn vị (khi ấy là Trung Đoàn 53/SĐ23BB) cố thủ tại phi trường Phùng Dực ( chỉ với một Tiểu Đoàn và Đại Đội Trinh Sát) đến mấy ngày sau trước một lực lượng địch đông đão bao vây. Khi sắp hết đạn, ông mở đường máu rút quân về hướng Lâm Đồng, mang theo được tất cả thương binh.

Trung Đoàn 47 BB vừa tái lập xong, chúng tôi nhận lệnh di chuyển xuống Long An để mở những cuộc hành quân nhằm ngăn chặn địch quân kéo về vây hảm và pháo kích vào Sài gòn.

Rồi cuối cùng cái biến cố đau thương cũng phải đến. Khi đám Cộng quân tràn vào Dinh Độc Lập sau khi Ông Tổng Thống Dương văn Minh lên đài phát thanh mời “người anh em bên kia” đến nhận bàn giao, đơn vị chúng tôi vẫn đang hành quân dưới miệt Cần Giuộc, và vừa tái chiếm xong xã Mỹ Lộc, một số đồng đội bị thương vào giờ thứ 25 chưa kịp tản thương. Đất nước thống nhất, “những người anh em bên kia” đã đãi ngộ tôi bằng tám năm đọa đày trong các trại tù cải tạo tận vùng Việt bắc. Vợ con ở nhà thì nheo nhóc, thê lương. Cha tôi cũng bị bắt vào tù và chết một năm sau đó.

Ra tù, không còn đất sống. Lây lất một thời gian, tôi phải liều thân dẫn vợ con vượt biển ra đi. Sau mấy năm định cư ở Na Uy, cuộc sống gia đình tạm ổn định. Hai cô con gái lớn may mắn được một trường đại học bên Mỹ nhận, vợ chồng tôi đưa hai cháu sang Cali tìm nơi ăn chốn ở, nhân tiện thăm đám bạn bè cùng đơn vị ngày xưa. Gặp thằng bạn này thì nghe thêm tin tức của vài thằng bạn khác, đứa còn đứa mất, mỗi thằng một cảnh long đong. Và bất ngờ tôi biết được tin Long. Một thằng bạn, khi mới chân ươt chân ráo từ trại tị nạn Bidong sang Mỹ, được ông chủ gốc nhà binh ưu ái nhận vào làm trong một siêu thị trên Michigan. Người chủ ấy chính là Long. Thằng bạn cho biết Long sang đây từ năm 75, và có tài kinh doanh nên bây giờ đã là triệu phú. Anh ta rất tốt với đám nhà binh lưu lạc sang đây. Biết ai là lính ngày xưa, Long cũng đến thăm, giúp đỡ tận tình, nếu chưa có việc làm, anh sắp xếp vào làm tạm tại các siêu thị, nhà hàng của anh, đảm trách những công việc nhẹ nhàng, lương bổng cũng khá. Anh bạn lục lọi trong cuốn sổ tay tìm đuợc số phôn gọi lên tìm, nhưng siêu thị đã bán cho chủ mới. Họ tốt bụng hứa là sẽ tìm số phôn mới của Long. Lần mò đến ba hôm sau, chúng tôi gọi được Long. Nó đúng là thằng bạn chí tình. Giàu nhưng không quên bạn. Nhận ra giọng nói của tôi trong điện thoại, nó hét lên mừng rỡ:

–  Bây giờ mày đang ở đâu? Mày đi một mình hay có vợ con không? Nghe tin mày vượt biên, tao tìm mày khắp nước Mỹ mà không ra.

–  Tao đang ở nhà người quen ở Sacramento với bà xã và hai đứa con gái. Tao ở bên Âu châu qua, chứ có ở Mỹ này đâu mà mày tìm. Tôi trả lời

–  Tao “búc” vé máy bay ngay bây giờ, tụi mày lên tao ngay chiều nay nghe?

–  Không được, chiều nay tao đã có hẹn ở San Jose, hơn nữa đâu có biết là gặp mày, nên tao đã mua vé rẻ đi một vòng qua nhiều tiểu bang lắm. Chiều mai tụi tao bay lên Maryland, Houston rồi sang Florida, North Carolina và một vài nơi nữa, làm sao gặp mày bây giờ.

Nó bảo tôi cho số phôn và nó sẽ gọi lại sau mười phút. Nó gọi lại, hẹn gặp tôi tại phi trường San Jose. Nó bảo vợ chồng nó có nhà nghỉ mát ở gần đó. Vợ chồng nó sẽ đến San Jose bằng chuyến bay 5 giờ chiều nay.

Tôi đón nó ở phòng đợi phi trường cùng với vợ chồng thằng bạn khác ở San Jose mà tôi đã hẹn. Long nhận ra tôi trước. Nó khác xưa nhiều lắm, mập ra và trông bệ vệ như một chính khách hơn là một thương gia. Nó ôm chặt lấy tôi quay mấy vòng.

Sau khi ăn tối xong nó đưa bọn tôi về nhà nghỉ mát của nó. Ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống cây cầu nổi tiếng Golden Gate ở San Francisco. Ngôi nhà nhỏ, nhưng khá xinh, có cậu em trai út của vợ nó đang ở và một người Mễ trông coi. Nó bảo ngôi nhà này lúc trước nó mua cho cô con gái ở trong thời gian theo học trường Stanford. Bây giờ có chồng nên dọn đi nơi khác. Nó tính sau này vợ chồng nó sẽ về đây dưỡng già, nên giữ cái nhà này lại.

Hôm ấy, chúng tôi thức suốt đêm, nhắc nhở bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, điểm danh lại đám bạn bè, tính xem đứa mất đứa còn, đang trôi dạt nơi đâu. Tôi kể cho nó nghe hơn tám năm tù đày khốn khổ, vợ con nheo nhóc, và nhớ lại trước ngày mất Nha Trang, khó khăn và nguy hiểm lắm tôi mới đến được Cam Ranh rồi Vũng Tàu, nhưng tìm khắp nợi mà không thấy vơ chồng nó, nên rất lo lắng.

Nó rơm rớm nước mắt:

–  Tao thường nhắc với vợ con tao về mày, bảo tất cả phải nhớ ơn mày. Vì nhờ mày tao mới rút được tiền ở ngân hàng Nam Việt hồi ấy. Và chính nhờ số tiền đó, khi đưa cả gia đình tao và gia đình bà xã tao đến Cam Ranh, xe cộ chật cứng, cả đêm không nhúc nhích được, mạnh ai nấy tìm đường sống. Tao trả giá rất cao mới mua được một chiếc tàu máy rồi cả nhà chạy ra đệ thất hạm đội. Nếu không có tiền, chẳng hiểu bây giờ tụi tao ra sao nữa.

Nghe nó nhắc gia đình vợ, tôi hỏi bố mẹ vợ nó bây giờ ở đâu và sức khỏe ra sao. Nó bảo ông cụ hiền lành thì mất hơn năm năm rồi, bà già “bắc kỳ giết giặc” thì vẫn còn sống và đang ở San Jose cũng gần đây thôi.  Có lẽ nó vừa nhớ tới chuyện ngày xưa nên câu chuyện trở nên sôi nổi:

–  Lúc chạy bà cũng gần trắng tay. Của chìm của nổi bỏ lại hết. Tao hận cái nghèo, hận chuyện ngày xưa, nên qua đây tao đi làm đầu tắt mặt tối, kiếm một số vốn rồi ra kinh doanh. Tao nghĩ ở cái xứ này chỉ có làm business thì mới sớm đổi đời. Không ngờ tao có lộc trời, chưa đầy mười năm sau tao có mấy cái nhà hàng, và một siêu thị. Tao mua cho ông bà cái nhà cả triệu đô, nuôi đám con của bả, em của bà xã tao, thằng nào cũng xong đại học, hai thằng ra bác sĩ, còn thằng út, đang ở nhà tao đây, thì học MBA ở Stanford. Tao làm cho bà ấy thấy tiền bạc có nghĩa gì đâu, mà ngày xưa bà khinh rẻ gia đình tao, làm cho ba tao buồn đến phát bệnh luôn. Cả đời này tao sẽ còn hận bà. Lo đầy đủ cho gia đình bà xong, vợ chồng tao “move” lên Houston, rồi Washington DC, Michigan, Oregan và cuối cùng thì tới đóng đô ở Seattle. Từ đó tao không muốn gặp bà ấy nữa, vì mỗi lần gặp bà tao lại nghĩ đến nỗi hận của Ba tao. Chỉ có vợ tao lâu lâu về thăm bà mà thôi.

–  Còn mấy đứa con của mầy ra sao, không nghe mầy nhắc tụi nó.

–  Lúc tụi tao ra đi, chỉ có thằng Đăng bảy tuổi và con Tâm mới năm tuổi. Sang đây đổi tên thành Danny và Tammy, Qua Mỹ, tuị tao chỉ có thêm thằng Kevin. Thằng Danny thì tốt nghiệp luật ở Yale, đang làm cố vấn pháp luật cho hảng Boeing, con Tâm thì ra trường Stanford ngay San Francisco này. Bây giờ làm SFO cho Bank of America. Cái nhà này lúc trước tụi tao mua cho nó ở. Còn thằng út Kevin thì đang học tiến sĩ ờ Harvard, trên Massachusetts.

Mắt tôi sáng lên, mừng cho sự thành công của vợ chồng nó:

–  Tao phục mày. Con cái mày giỏi quá. Tụi mày vừa được vinh dự lại vừa tha hồ hưởng phước.

Nó trợn mắt:

–  Dự với phước cái con khỉ. Tụi nó lấy vợ Mỹ, chồng Mỹ. Bây giờ tụi nó thành Mỹ hết. Cả năm nay tao chưa gặp tụi nó. Còn bọn nó đâu có rảnh. Có vacation là nó đưa vợ con nó đi đó đi đây. Lâu lâu nó gọi phôn hỏi thăm tao vài câu. Còn bà vợ tao nói tiếng Anh giọng Hà Nội, nên mỗi lần nhớ cháu, mới nói một hai câu là tụi nó nói không hiểu, rồi  cúp phôn luôn. Nghĩ lại, “lỗi tại ta mọi đàng”. Sang đây vợ chồng tao cứ lo làm giàu. Tao nghĩ ở Việt Nam vì gia đình tao nghèo, nên bị người ta khinh rẻ. Mặc dù tao cũng có chức có tước như ai. Tao nghĩ có tiền là có tất cả. Tao nhất định phải rửa cái hận nghèo. Vì vậy mà đâu có còn thì giờ để gần gũi con cái, cứ bắt tụi nó phải học, cho nó ở hẳn trong “dorm”, không cho nó kết bè kết bạn với đám nhỏ Việt Nam, để cho tụi nó sớm thành Mỹ, mà phải là Mỹ thượng lưu, trí thức. Bây giờ nó đã thành Mỹ thiệt rồi thì càng lúc tao thấy càng cách xa tụi nó, có khi mất luôn. Tính ra con cháu cũng cả đàn đó chứ, vậy mà bây giờ nhìn trước nhìn sau cũng chẳng có ai. Không biết lúc về già vợ chồng tao sẽ sống ra sao đây, vào viện dưỡng lão thì chán chết.

Tôi đùa để an ủi nó:

–  Que sera  sera! mày cứ khéo lo. Ở ngoài  này đa số là vậy. Rồi đến khi lá rụng cũng sẽ về cội thôi.

Nó thở dài:

–  Cội có ở đây đâu mà rụng. Chính lúc tao “rụng” cũng không về được với cội, chứ nói chi tới con cháu. Cội của tao là ở cái xứ nghèo Chợ Lách, Vĩnh Long bên Việt Nam kìa. Tao cũng đã tính mai mốt về già, vợ chồng tao sẽ về sống vài năm cuối đời rồi chết ở Việt nam, được nầm bên cạnh ông bà già tao. Nhưng khốn nỗi chẳng còn chỗ để mà về nữa. Bà già tao, như mày biết, qua đời hồi tao còn trung học. Ông già tao thì mất từ năm 78. Ở cái làng nghèo mà có một thằng làm đến quan tư như tao là được xếp loại ác ôn ghê lắm. Tao đi rồi, ở nhà ông già tao lãnh nợ cho tao. Bị bắt lên bắt xuống, hành hạ đủ kiểu, nên phải chết sớm. Tội nghiệp, ngày xưa khi vợ tao sinh con trai đầu lòng, tao mừng vì nghĩ khi nào ông già qui tiên sẽ có thằng cháu đích tôn bưng tấm hình của ông đi trước quan tài. Vậy mà cho đến bây giờ, chính tao cũng không biết ngội mộ của ổng ra sao. Tao chỉ còn có thằng em trai, lúc nó theo ông già vào thăm tao trong Thủ Đức chắc mày còn nhớ. Hồi xưa nó chịu khó học hành, hiền lành hiếu để lắm. Tao có mỗi nó là em, nên thương nó hết mình, tiền bạc tao gởi về như nước. Không ngờ có nhiều tiền nó trở chứng, bỏ vợ bỏ con xuống Sài gòn rượu chè bài bạc, sống hết với con này tới con khác. Cuối cùng thì nó hút xì ke. Vợ nó bán cả nhà từ đường, thu tóm tiền bạc dẫn đứa con trai đi biệt tích. Sau này nghe nói nó theo một tay Bắc kỳ nào ra tận Hà Nội, Hải Phòng gì đó. Tao phải thuê người bà con xây lại ngôi mộ cho ông bà già tao, và đến ngày giỗ thì thắp cho ông bà cây nhang.  Nằm dưới suối vàng chắc ông bà cũng tủi thân lắm. Tao chưa về Việt nam, nhưng ở đây có vài người đã về thăm. Họ bảo là bây giờ cái xã hội “ kinh tế thị trường theo định hướng quái quỷ gì đó” ở bên nhà đã làm cho con người ta đổi thay nhiều lắm. Đồng tiền nó đã xói mòn tất cả mọi thứ đạo đức. Bọn cầm quyền chỉ biết đua nhau tham nhũng. Đất nước mà bọn nó còn bán được huống hồ đám dân nghèo. Cái làng nhỏ ở xứ Chợ Lách khỉ ho cò gáy của tao bây giờ cũng đầy dẫy quán bia ôm, cà phê ôm, phòng tắm hơi, với đủ hạng đĩ điếm. Cha mẹ còn đem con gái bán cho đám Đài Loan, Đại Hàn, hay mấy mụ tú bà. Bọn chính quyền trong nước cứ bảo những người ở ngoài này là “khúc ruột ngàn dặm”, là “một bộ phận không thể tách rời” nhưng trong lòng thì vẫn còn mang nặng thù hằn. Tao rất sợ cái loại chữ nghĩa này của đám Cộng sản. Người chết nằm trong nghĩa trang Biên Hòa còn bị đập bia, phá mộ, san bằng, huống hồ những thằng còn sống như tao với mày. Ai mà tin được. Mày còn nhớ câu nói của ông Thiệu: “ Đừng tin những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì bọn nó làm” không?

Ngưng vài phút, nốc cạn cốc Hennesy, nó ngẩng đầu lên nhìn tôi:

–  Mày thấy không. Ngày xưa nghèo thì bị người ta khinh rẻ. Bây giờ giàu có, tiền bạc lại không biết để làm gì. Đúng là khi mất quê hương thì mất tất cả. Cuộc đời này khốn nạn thật. Sắc sắc không không! Chắc tao sẽ đi tu.

Tôi ôm chặt vai nó:

–  Thì mày còn bạn bè, mày còn tụi tao đây. Có khi bạn già sống với nhau lại hay, vì mình dễ cảm thông, dễ chia sẻ mọi nỗi niềm.

Không ngờ lời nói chỉ cốt an ủi của tôi đã làm cho đôi mắt nó sáng lên:

–  Hay là mày cho hai đứa con mày ở lại đây với vợ chồng tao. Tụi tao hứa là sẽ coi nó như con tao. Mấy cháu còn nói tiếng Việt giỏi quá, mà cũng lễ phép dễ thương. Nói chuyện với tụi nó tao thấy sao mà gần gũi quá, nhất là bà xã tao cứ ôm tụi nó mà nói đủ thứ chuyện dưới đất trên trời. Tao sẽ lo cho tụi nó vô trường Stanford hay ít nhất là Berkeley, chứ học mấy cái trường State đó làm gì. Còn vợ chồng mày cứ sang đây, tao nhường lại cây xăng, hay một cái nhà hàng. Mọi thứ đều free. Khi nào tụi mày giàu rồi thì từ từ trả vốn cho tao cũng được. Để tụi mày còn sớm được cấp thẻ xanh nữa.

Tôi cười, vỗ vai nó,

–  Cám ơn mày. Con tao sang đây đã lớn, bên Việt nam thì cũng chẳng được bọn Cộng sản cho phép học hành gì. Tụi nó học không giỏi lắm, vào được State là tao mừng rồi. Tao chỉ mong ra trường tụi nó kiếm việc gì đó làm, đủ để tự lo cho mình. Còn tụi tao có biết buôn bán kinh doanh gì đâu. Tao ở lại sau tháng 4/75 nên thấy mọi thứ sao mà phù du quá. Nhiều kẻ vong ơn, phản trắc quá. Con người đối xử với nhau sao mà ác độc quá, còn tệ hơn loài cầm thú. May mà đám bạn bè tụi mình còn giữ được chút tình. Cái này quý lắm, nên hãy cố mà giữ lấy, đừng để giàu nghèo nó làm mai một. Tao buồn lắm, khi thấy trong đám nhà binh của tụi mình, có nhiều thằng cũng từng một thời đánh đấm, tù tội với nhau, vậy mà ra ngoài này mới sung sướng một chút, đã tranh nhau chức tước hư danh mà chia bè chia nhóm, chữi bới nhau còn hơn là kẻ thù. Thấy mà ngán ngẫm. Thôi, để tụi tao về Na Uy làm tà tà cũng đủ sống. Hơn nữa tao cũng thích ở cái xứ Bắc Âu hiền hòa yên tĩnh, hợp với những thằng chậm chạp như tao. Và tao cũng cần tịnh dưỡng để chữa những vết thương khó mà lành được trong lòng tao nữa. Nghe mày tâm sự, tao cũng thấy sợ. Sang đây với mày, không khéo sẽ trở lại cái điệp khúc của mày.

Sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao trên đỉnh đồi, hai thằng mới chui vào phòng ngủ. Trước khi chợp mắt, hồi tưởng lại ngày xưa, tôi thấy lòng lâng lâng tiếc nuối. Dù sống trong nghèo khó, hiểm nguy, nhưng lòng lúc nào cũng vui, cũng thấy yêu đời. Cả đất trời và ai nấy cũng dễ thương. Có lẽ bởi con người còn nặng tình với nhau và mình còn có cái cội đích thực để dù đi đâu cũng còn chỗ để quay về – Và dĩ nhiên, đó là thời gian trước tháng 4/1975  •

Cali, ngày thanksgiving
    Phạm Tín An Ninh

1 thought on “nguồn cội xót xa

  1. Tran Diep

    Toi rat thich doc van ong PTAN tu lau roi …Van ong trung thuc day tinh nguoi va chan thanh am ap .
    Tran diep

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *